Về liên minh công - nông và xây dựng khối liên minh giai cấp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Dương Thị Thanh Xuân TS, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công đoàn
21:00, ngày 14-11-2016

TCCS - Lý luận về liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức cùng với đoàn kết với các tầng lớp lao động khác là một trong những nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học. Hiện nay, Đảng ta đang kế thừa và phát huy những giá trị quý báu về liên minh giữa giai cấp và đoàn kết xã hội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về liên minh công nông

Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăng-ghen sớm nói đến khả năng và sự cần thiết phải đoàn kết giai cấp vô sản (GCVS) với các tầng lớp trung gian. Sau cách mạng 1848 - 1852 ở Tây Âu, các ông thấy rõ, vấn đề liên minh giữa GCVS và các giai tầng khác trong xã hội, nhất là giai cấp nông dân (GCND) trở thành vấn đề có tính sống còn đối với cuộc đấu tranh cách mạng của GCVS. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của Công xã Pa-ri (năm 1871) cũng là do GCCN không liên minh được với GCND. Từ thực tiễn lịch sử sinh động của Công xã Pa-ri, C. Mác đã bổ sung cho lý luận của mình về liên minh công nông (LMCN), đó là vai trò quan trọng của GCND không chỉ trong việc giành chính quyền mà còn cả trong việc giữ chính quyền.

Tuy nhiên, sự cần thiết của LMCN không chỉ từ phía GCVS mà còn từ phía GCND. Giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác cũng không thể thoát khỏi ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản (GCTS), không thể được giải phóng một cách thực sự và triệt để nếu không liên minh với GCVS, không trở thành người bạn đồng minh của GCVS. C. Mác khẳng định: “Đứng trước giai cấp tư sản phản cách mạng đã liên minh lại thì dĩ nhiên là những phần tử đã được cách mạng hóa của giai cấp tiểu tư sản và của nông dân, phải liên minh với người đại biểu chủ yếu cho những lợi ích cách mạng, tức là giai cấp vô sản cách mạng”(1). Vì, “... người nông dân thấy rằng giai cấp vô sản thành thị, giai cấp có sứ mệnh lật đổ chế độ tư sản là người bạn đồng minh, người lãnh đạo tự nhiên của mình”(2).

Tuy vậy, để có thể liên minh được với GCND, cần phải thấy rõ đặc điểm, vai trò của giai cấp nông dân trong tiến trình cách mạng.

Trong GCND, có một bộ phận cốt lõi là tiểu nông. Về kinh tế, mỗi gia đình nông dân là một đơn vị kinh tế gần như tự túc hoàn toàn, cho thấy tính liên kết giữa họ rất ít. Về xã hội, quan hệ xã hội của họ có tính chất dòng họ, địa phương, làng xã, khiến tầm nhìn, suy nghĩ của người nông dân rất hạn chế. Về văn hóa - tư tưởng, sống trong những điều kiện kinh tế - xã hội như vậy, nên trình độ học vấn của nông dân rất thấp kém, tư tưởng bảo thủ và họ không có hệ tư tưởng riêng. Chính đặc điểm kinh tế - xã hội, văn hóa - tư tưởng đã quy định vị trí, vai trò của GCND trong xã hội tư bản là tầng lớp trung gian, họ có thể ngả theo GCVS và cũng có thể ngả theo GCTS. Vấn đề là trên thực tế ai đem lại và bảo vệ lợi ích cho họ.

Ph. Ăng-ghen cũng đã nhận diện hai mặt tích cực và tiêu cực của người nông dân (chủ yếu là tiểu nông). Một mặt, họ là người lao động, đây là mặt tích cực, cách mạng của nông dân, vì với tư cách là người lao động trong xã hội cũ họ bị bóc lột, có nhu cầu muốn giải phóng khỏi chế độ người bóc lột người, vì vậy họ sẵn sàng đi theo GCCN làm cách mạng. Mặt khác, họ lại là người tư hữu nhỏ, đây là mặt tiêu cực, hạn chế của người nông dân. Vì tư hữu nhỏ nên họ có thái độ lừng chừng, nửa vời, không muốn đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), thỏa mãn với những gì đạt được, sợ đi lên CNXH sẽ xóa tư hữu nhỏ của họ. Những phân tích về đặc điểm, vai trò của GCND mà C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã chỉ ra không chỉ cho thấy sự cần thiết phải liên minh giữa GCVS và GCND, mà còn cần thiết cho việc giáo dục, giác ngộ GCND trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Về nội dung của liên minh công nông, không chỉ dừng ở sự liên minh về chính trị, C. Mác và Ph. Ăng-ghen còn chỉ rõ sự liên minh về kinh tế giữa GCVS và GCND. Trong giai đoạn xây dựng CNXH thì liên minh về kinh tế là liên minh cơ bản, thường xuyên và lâu dài, là cơ sở cho liên minh trên các lĩnh vực khác. Theo Ph. Ăng-ghen, nhiệm vụ chủ yếu của chính đảng vô sản là phải không ngừng giải thích cho nông dân thấy rằng, chừng nào mà chủ nghĩa tư bản (CNTB) đang còn nắm chính quyền thì tình cảnh của họ vẫn là tuyệt vọng mà thôi, tuyệt đối chắc chắn là nền sản xuất tư bản chủ nghĩa quy mô lớn sẽ đè bẹp sản xuất quy mô nhỏ, bất lực và lỗi thời của họ. Cần chỉ cho nông dân thấy, lợi ích chân chính của họ là phải chuyển ruộng đất của họ thành tài sản của hợp tác xã, tức là đưa nông dân đi vào sản xuất hợp tác: “Dù sao thì điều chủ yếu cũng là phải làm cho nông dân hiểu rằng chúng ta chỉ có thể cứu vãn và bảo tồn được tài sản của họ bằng cách biến tài sản đó thành tài sản hợp tác xã và thành những doanh nghiệp hợp tác xã”(3). Ph. Ăng-ghen cũng cho rằng đó là khâu trung gian trong việc chuyển nền sản xuất cá thể của nông dân quá độ lên CNXH không qua phát triển tư bản chủ nghĩa.

C. Mác và Ph. Ăng-ghen cũng chỉ rõ nguyên tắc cải tạo xã hội chủ nghĩa (XHCN) đối với nông nghiệp và nông dân. Nguyên tắc thứ nhất là không được dùng bạo lực đối với nông dân, “... mà là bằng những tấm gương và bằng sự giúp đỡ của xã hội”(4). Nguyên tắc thứ hai là tự nguyện, không được gò ép, bắt buộc đối với nông dân: “Chúng ta kiên quyết đứng về phía người tiểu nông,... để cho họ có thời gian suy nghĩ với tư cách là người sở hữu mảnh đất của họ nếu họ chưa có thể quyết định như thế”(5). Nguyên tắc thứ ba là tiến dần từ thấp đến cao: phải phát triển các hợp tác xã từ bậc thấp đến bậc cao, từ quy mô từng xã đến quy mô liên xã. Các ông cho rằng, để nông dân đi lên CNXH một cách thuận lợi, nhà nước phải có nhiệm vụ giúp đỡ nông dân trong cuộc cải tạo XHCN. Trong sách lược đối với nông dân, theo Ph. Ăng-ghen, trong điều kiện của CNTB không thể coi nông dân là một khối thống nhất, vì họ không ngừng phân hóa, do đó, sách lược của các đảng XHCN cần phải khác nhau đối với các thành phần nông dân khác nhau.

Xây dựng liên minh công nông ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn và sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về liên minh giai cấp. Hiện nay, vấn đề liên minh công nông đã được mở rộng thành liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và trở thành nòng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định phải “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”(6), để lực lượng này thực sự trở thành nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc.

Khẳng định vai trò quan trọng của các bộ phận trong sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng

Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định vai trò lãnh đạo của GCCN đối với cách mạng Việt Nam. Hội nghị Trung ương 6 khóa X đã khẳng định “Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam;...; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”(7).

Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sẽ không trở thành hiện thực, nếu không có nền nông nghiệp phát triển ổn định, vững chắc làm cơ sở, và điều đó không thể tách rời vai trò của GCND. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn là một thách thức đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết chuyên đề về vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tiêu biểu là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X đã chỉ rõ: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước”(8).

Cùng với liên minh công nông là nòng cốt của cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng, đánh giá cao vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng cũng như trong quá trình đổi mới, xây dựng đất nước. Sức mạnh của khối liên minh giai cấp trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức không thể tách rời vai trò của đội ngũ trí thức. Quá trình phát triển và hội nhập sâu rộng với thế giới trong khi cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tư đã lan rộng đang đòi hỏi trách nhiệm ngày càng cao của đội ngũ trí thức: “Đội ngũ trí thức nước ta có tinh thần yêu nước, có lòng tự hào dân tộc, tự tôn dân tộc sâu sắc, luôn gắn bó với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Bằng hoạt động sáng tạo, trí thức nước ta đã có đóng góp to lớn trên tất cả các lĩnh vực xây dựng, bảo vệ Tổ quốc”(9). Mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo trong nhân dân, trong đó có công nhân, nông dân và trí thức, cần được khai thác và phát huy để xây dựng và bảo vệ đất nước.

Từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các bộ phận trong liên minh

Việc thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp, khuyến khích và trợ giúp nông dân trong tiến trình thực hiện nghị quyết các đại hội đảng đã phát huy tác dụng, bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi: “Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả to lớn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao”(10). Tuy nhiên, nông dân chưa được hưởng lợi tương xứng với đóng góp cho sự phát triển đất nước. Các biện pháp kinh tế - kỹ thuật dù đã phát huy tác dụng, nhưng sự chuyển biến tư duy của người nông dân vẫn chưa được như kỳ vọng. Tâm lý tiểu nông còn khá nặng nề trong nông dân và trong cả những giai cấp, tầng lớp khác...

Cùng với quá trình đổi mới, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, “giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức; đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam... Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, việc làm và đời sống của giai cấp công nhân ngày càng được cải thiện”(11). Tuy nhiên, vấn đề phát triển GCCN ở nước ta trong thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập. Trình độ học vấn có xu hướng tăng, nhưng so với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế thì vẫn chưa theo kịp. Đặc biệt, chúng ta đang thiếu đội ngũ công nhân lành nghề, chuyên gia kỹ thuật, nhà quản lý giỏi. Đời sống vật chất và tinh thần của công nhân nhiều nơi chưa được bảo đảm, kỷ luật lao động chưa nghiêm, tác phong tự do tùy tiện. Quyền lợi hợp pháp của công nhân ở nhiều đơn vị bị vi phạm, như trả lương không đúng hợp đồng, nợ bảo hiểm, bảo hộ lao động không bảo đảm... Tình hình đó kéo theo sự giác ngộ giai cấp, ý thức chính trị cũng phai nhạt, nhất là đối với bộ phận công nhân trong khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

Trong tiến trình đổi mới “Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị... để tạo động lực thúc đẩy sự sáng tạo, cống hiến của đội ngũ trí thức. Nhà nước đã thực hiện các chính sách... sử dụng và tạo môi trường phát huy vai trò của trí thức;... đãi ngộ, tôn vinh trí thức... tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ trí thức và các hội của trí thức hoạt động, phát triển”. Tuy nhiên “đội ngũ trí thức nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế và yếu kém... Nhìn chung, hoạt động nghiên cứu khoa học chưa xuất phát và gắn bó mật thiết với thực tiễn sản xuất, kinh doanh và đời sống”(12).

Một số giải pháp phát huy sức mạnh của liên minh công nông - trí thức trong khối đại đoàn kết dân tộc

Một là, tiếp tục nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các bộ phận trong khối liên minh công - nông - trí thức.

Với giai cấp công nhân, đào tạo đội ngũ công nhân vững về tri thức nghề nghiệp, thành thạo kỹ năng và thái độ lao động chuyên nghiệp, tích cực. Đây vừa là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa là đòi hỏi của quá trình hợp tác, phân công lao động và các hiệp định thương mại khu vực, quốc tế. Gắn đào tạo nghề với việc mở rộng và phát triển các ngành, nghề, lĩnh vực phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập khu vực, quốc tế, giáo dục văn hóa lao động, kỷ luật lao động, trách nhiệm nghề nghiệp và tác phong công nghiệp.

Quan tâm cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân lao động. Có quy định bảo đảm công bằng về tiền lương trong các thành phần kinh tế, bảo đảm giá trị tiền lương thực tế để đủ cho cuộc sống của người lao động cùng con cái họ. Cải thiện môi trường lao động, bảo hộ lao động, chăm lo sức khỏe thể chất và tinh thần của người công nhân, nhất là xây dựng các thiết chế văn hóa, điều kiện nhà ở... tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Tăng cường quản lý, giám sát việc thực thi pháp luật, nhất là Luật Lao động, Luật Bảo hiểm, Luật Thuế thu nhập cá nhân,... bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của công nhân lao động; giải quyết các tranh chấp lao động trên cơ sở luật pháp quốc gia và quốc tế... để “bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của công nhân’’(13).

Đối với giai cấp nông dân, khẩn trương hoàn thiện cơ chế liên kết kinh tế trong việc sản xuất, bảo quản, chế biến, tiêu thụ hàng nông sản. Xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam đồng thời với việc bảo vệ thương hiệu và quyền sở hữu trí tuệ. Các chính sách hợp tác, hỗ trợ, cung ứng dịch vụ cho sản xuất, kinh doanh liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được thực hiện đồng bộ, tích cực... bên cạnh các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục cộng đồng. Nhà nước thống nhất quản lý và điều hành hệ thống dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông dân, nông thôn thông qua hệ thống liên kết “Bốn nhà”. Có cơ chế, chính sách và cả cơ chế giám sát để hệ thống vận hành một cách hiệu quả, bền vững, tạo cơ sở gắn kết các chủ thể lợi ích và các chủ thể trong liên kết, như Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Hỗ trợ, khuyến khích nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp, mở rộng và nâng cao chất lượng cung ứng các dịch vụ cơ bản về điện, nước sạch, y tế, giáo dục, thông tin,... cải thiện chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả, bền vững công cuộc xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích làm giàu hợp pháp”(14).

Với tầng lớp trí thức, thực hiện chính sách tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ phù hợp, nhất là đội ngũ nghiên cứu, chuyên gia, kỹ thuật viên cao cấp, hình thành đội ngũ chuyên gia chiến lược của đất nước đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ lần thứ tư. Quan tâm xây dựng đội ngũ trí thức trẻ, đáp ứng yêu cầu tiếp cận tri thức khoa học, công nghệ tiên tiến của thời đại. Tạo cơ chế phù hợp để các nghiên cứu, ứng dụng nhanh chóng được phổ biến rộng rãi, thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu, đồng thời bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm đó. Quan trọng hơn, “Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ và tôn vinh xứng đáng những cống hiến của trí thức. Có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước”(15).

Hai là, phát huy vai trò của mỗi giai cấp, tầng lớp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Đối với giai cấp công nhân, chú trọng bồi dưỡng, nâng cao ý thức chính trị, giác ngộ giai cấp, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần dân tộc. Trước mắt cần nâng cao sự hiểu biết về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan đến lao động, việc làm, chính sách xã hội, những vấn đề cơ bản về kinh tế thị trường, thị trường lao động, quan hệ lao động, hợp tác và cạnh tranh, hội nhập quốc tế theo cam kết của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, những vấn đề về sở hữu trí tuệ, phá sản, bảo hiểm. Bồi dưỡng tinh thần và ý chí lao động, thái độ đối với sức ép cạnh tranh trong thị trường lao động, các kỹ năng giải quyết quan hệ lao động, đặc biệt là lao động gắn với yếu tố nước ngoài, trong khu vực FDI.

Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức nghề nghiệp trong các loại hình doanh nghiệp. Đổi mới hoạt động của tổ chức công đoàn, hướng về cơ sở, nắm bắt kịp thời, thường xuyên nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích chính đáng, hợp pháp của công nhân và đấu tranh, bảo vệ lợi ích của họ. Đội ngũ cán bộ trong các tổ chức chính trị - xã hội của công nhân phải thường xuyên nâng cao về trình độ, khoa học, công nghệ, pháp luật, ngoại ngữ, tin học… đủ sức tham gia có hiệu quả vào quá trình tập hợp, thu hút quần chúng công nhân, tổ chức hoạt động cũng như bảo vệ lợi ích người lao động, cả trong phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế; phương pháp, kỹ năng tổ chức hoạt động phải đa dạng, linh hoạt, theo kịp với những thay đổi về lao động, việc làm của giai cấp công nhân trong tình hình mới.

Đối với giai cấp nông dân, phải đặt vấn đề giáo dục, nâng cao trình độ dân trí cho nông dân lên hàng đầu. Nội dung giáo dục không chỉ giới hạn ở vấn đề chuyển giao khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới, mà sâu xa hơn là nền tảng tri thức, văn hóa, tư duy, nếp nghĩ, thói quen của nông dân. Khắc phục tính manh mún, nhỏ lẻ trong tư duy của nông dân, thúc đẩy nông dân tiếp cận với cái mới, khoa học, giúp họ thay đổi theo hướng chuyên nghiệp, văn minh trong sản xuất, kinh doanh và tổ chức đời sống.

Ổn định và từng bước cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của nông dân và cư dân nông thôn, khắc phục tình trạng “ly hương”, giảm sức ép về lao động mùa vụ ở các khu đô thị lớn cũng như các vấn đề xã hội khác ở nông thôn và thành thị, xây dựng nhà nông chuyên nghiệp với các mô hình hợp tác, liên kết phong phú, đa dạng. Điều này vừa góp phần phát triển nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới; vừa góp phần hạn chế những vấn đề xã hội có thể nảy sinh do sức ép về dân cư và các sinh hoạt khác.

Đối với đội ngũ trí thức, cần tạo điều kiện, môi trường dân chủ hơn nữa cho lao động sáng tạo của trí thức. Tạo điều kiện tối đa cho sự khai mở sáng tạo về tri thức, học thuật, văn hóa lắng nghe; cũng như tôn trọng sự khác biệt trong đối thoại, phản biện của trí thức. Đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật phù hợp với nhu cầu nghiên cứu, khảo nghiệm, thực nghiệm, trao đổi học thuật và phát triển tri thức, để thực sự “Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội”(16).

Ba là, kịp thời giải quyết những vấn đề nảy sinh có thể ảnh hưởng tới khối liên minh.

Liên minh giai cấp bền vững phải dựa trên việc tôn trọng nhu cầu, lợi ích của chính bản thân các chủ thể tham gia liên minh. Vì vậy, vấn đề cơ bản và xuyên suốt, vừa là nội dung, vừa là nguyên tắc mang tính quy luật trong việc xây dựng khối liên minh công - nông - trí thức là phải xác định đúng các nhu cầu, phát hiện kịp thời các nhu cầu mới nảy sinh của công nhân, nông dân, trí thức trong từng giai đoạn cụ thể; trên cơ sở những tiềm năng và thực trạng kinh tế - xã hội từ đó có giải pháp để thỏa mãn các nhu cầu; xử lý đúng đắn, kịp thời những mâu thuẫn nảy sinh giữa các giai cấp. Làm tốt điều này, sẽ củng cố, tạo nền tảng vững chắc cho việc xây dựng và phát triển xã hội, hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./.

--------------------------------------------

(1) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 7, tr. 84 - 85

(2) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 269

(3), (4), (5) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 22, tr. 737 - 738, 736, 738

(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 158

(7) Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 43 - 44

(8), (9) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 123 - 124, 82

(10), (12) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Sđd, tr. 121 - 122, 85

(11) Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Sđd, tr. 44 – 45

(13), (14), (15) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 161, 160, 161

(16) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 161 - 162