Là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), ở trung tâm Đông Nam Á, thuộc châu Á - Thái Bình Dương, khu vực phát triển năng động nhất hiện nay, Việt Nam có nguồn tài nguyên địa - chính trị quan trọng. Trước hết, Việt Nam có vị trí địa - chiến lược trọng yếu trong khu vực Đông Nam Á, nằm trên trục đường giao thông quan trọng các tuyến hàng hải, thương mại. Việt Nam là vị trí “cửa ngõ”, “tiền tiêu”, có giá trị và vai trò chiến lược đối với các nước trong khu vực. Đây là lợi thế để Việt Nam phát huy thế mạnh, tiềm lực của mình, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư.

I. Tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội trong các vùng lãnh thổ của Việt Nam

 Với vùng biển có diện tích rộng, gấp hơn 3 lần diện tích đất liền, đường bờ biển dài trên 3.260km, Việt Nam có lợi thế rất lớn trong phát triển kinh tế biển và giao lưu, hội nhập kinh tế quốc tế. Là cầu nối giữa hai vùng kinh tế biển và kinh tế lục địa của các nước Đông Nam Á và châu Á, Việt Nam có điều kiện thuận lợi để tăng cường kết nối, thúc đẩy hợp tác và phát triển trong khu vực, đóng vai trò then chốt về phát triển ngành hàng hải, công nghiệp tàu thủy và cung ứng dịch vụ logistics cho các quốc gia trong và ngoài khu vực. Hệ thống cảng biển nước ta như cảng Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghi Sơn, Vân Phong, Đà Nẵng, Dung Quất…, được quy hoạch, đầu tư phát triển khá toàn diện cả về quy mô, số lượng, chiều dài cầu cảng, công suất, trọng tải và độ hiện đại, đáp ứng nhu cầu xuất, nhập khẩu, vận tải hàng hóa đường biển cả trong nước và quốc tế. Sự hình thành mạng lưới cảng biển cùng các tuyến đường bộ, đường sắt ven biển và nối với các vùng sâu trong nội địa cho phép vận chuyển nhanh chóng, thuận lợi hàng hóa nhập khẩu tới mọi miền của Tổ quốc, cũng như đi đến các nước trong khu vực và thế giới. Hệ thống cảng nước sâu của Việt Nam thời gian gần đây không chỉ mở rộng quy mô mà còn ngày càng khẳng định vị thế trên bản đồ hàng hải thế giới. Cụm cảng nước sâu Cái Mép - Thị Vải (Bà Rịa - Vũng Tàu) đã tạo vị thế cho cảng biển Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu, giảm chi phí trung chuyển, chi phí logistics, từ đó tăng giá trị và sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Nhiều vũng, vịnh tương đối sâu và kín, thuận lợi cho việc xây dựng các cảng nước sâu và cho việc trú ngụ của tàu thuyền. Một tiềm năng nổi bật khác của kinh tế biển Việt Nam là nguồn tài nguyên dầu khí, trữ lượng ước tính khoảng 3,0-4,5 tỷ m3 dầu quy đổi.

Với bờ biển dài cùng hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ và hàng trăm bãi tắm cát trắng trải dài từ Bắc vào Nam, sự phong phú, đa dạng về tài nguyên tự nhiên và văn hóa đặc trưng vùng biển, đảo đã tạo ra những tiềm năng to lớn và lợi thế so sánh cho phát triển du lịch biển, đảo ở Việt Nam. Với những bãi biển, vịnh đẹp nổi tiếng thế giới như Hạ Long, Nha Trang, Ðà Nẵng được Tạp chí Forbes bầu chọn, ngành du lịch biển, hải đảo Việt Nam đang trên đà phát triển, thu hút ngày càng nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Ngoài những tiềm năng về tài nguyên - môi trường, biển Việt Nam còn có khoảng 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có 3 đảo rộng trên 100km2 là Phú Quốc (590km2), Cái Bầu (194km2) và Cát Bà (160km2), có 2.773 đảo ven bờ với tổng diện tích tự nhiên khoảng 1.720km2, 2 quần đảo xa bờ là Hoàng Sa, Trường Sa. Với vị trí phân bố đặc thù, hệ thống đảo Việt Nam đã đóng vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội cả nước nói chung và phát triển kinh tế biển nói riêng. Ðây được coi là ưu thế nổi bật, đặc thù của hệ thống đảo mà các quốc gia khác không có được.

Việc khai thác, nuôi trồng và chế biến hải sản trong vùng biển nước ta rất phong phú, nhiều đặc sản khác có giá trị kinh tế cao và trữ lượng lớn, với hơn 50 nghìn héc-ta các eo vịnh nông và đầm phá ven bờ, như vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, phá Tam Giang, vịnh Vân Phong,… là môi trường rất thuận lợi để phát triển nuôi cá và đặc sản biển.

Về hệ thống sông ngòi, có thể thấy Việt Nam có hệ thống sông ngòi dày đặc, có nguồn tài nguyên nước mặt tương đối dồi dào, trong đó có hai con sông lớn là sông Hồng và sông Mê Kông. Tuy nhiên là quốc gia nằm về phía hạ nguồn của các con sông lớn, chảy qua địa phận nhiều nước nên Việt Nam có yếu tố bất lợi, trong khi lượng nước mặt phụ thuộc rất lớn vào nguồn nước ngoại sinh. Hằng năm, các sông, suối xuyên biên giới chuyển vào nước ta khoảng 520 tỷ mét khối nước, chiếm khoảng 63% tổng lượng nước mặt của Việt Nam. Nguồn nước nội sinh của Việt Nam chỉ đạt 4.200m3/người/năm, thấp so với trung bình của Đông Nam Á là 4.900m3/người/năm. Theo kết quả nghiên cứu của Hội đồng Ủy hội sông Mê Kông quốc tế, khi các công trình thủy điện của các quốc gia trên thượng nguồn, hoàn thành xây dựng, đi vào vận hành sẽ có tác động bất lợi rất lớn đối với Việt Nam. Dự kiến, lượng phù sa, chất dinh dưỡng, môi trường, sinh kế người dân Vùng đồng bằng sông Cửu Long có thể giảm 97% vào năm 2040.

Trên đất liền, Việt Nam tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, Lào ở phía Tây, Cam-pu-chia ở phía Tây Nam. Đường biên giới Việt - Trung tiếp giáp với 7 tỉnh của Việt Nam từ Tây sang Đông là Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh. Biên giới Việt - Lào đi qua 10 tỉnh biên giới của Việt Nam là Điện Biên, Sơn La, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam và Kon Tum; Biên giới đất liền Việt Nam - Campuchia, chủ yếu chạy theo hướng Bắc - Nam và Đông Bắc - Tây Nam, đi qua biên giới 10 tỉnh của Việt Nam là Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắc Nông, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, An Giang và Kiên Giang.

Ngày 25-4-2008, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 52/2008/QĐ-TTg về việc Phê duyệt Đề án "Quy hoạch phát triển các Khu kinh tế cửa khẩu của Việt Nam đến năm 2020". Đến năm 2020 cả nước có 30 khu kinh tế cửa khẩu, hình thành thêm 7 khu kinh tế cửa khẩu mới trên các khu vực biên giới, trong đó có 9 khu kinh tế cửa khẩu: Móng Cái, Lào Cai, Lạng Sơn, Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo, Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo, Bờ Y, Mộc Bài, An Giang và Đồng Tháp, có tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ qua biên giới Việt Nam với các nước láng giềng đạt đến hàng chục tỷ USD. Khu Kinh tế cửa khẩu đã góp phần tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng phát triển các ngành thương mại, dịch vụ, du lịch và công nghiệp; góp phần mở rộng thị trường, tăng cường giao lưu hàng hóa, kích thích sản xuất và tăng tính cạnh tranh cho sản phẩm. Nhiều tỉnh biên giới trước đây là vùng sâu, vùng xa, kinh tế chậm phát triển, nay từng bước trở thành các trung tâm thương mại phát triển năng động, tạo động lực phát triển các khu vực lân cận.

Là quốc gia nằm trên tuyến đường bộ xuyên Á trong dự án xây dựng tuyến đường cao tốc, nối liền các quốc gia khu vực Âu - Á và nằm trong trục chính của Hành lang kinh tế Đông - Tây kết nối Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, đã tạo cho Việt Nam có tiềm năng to lớn trong việc phát triển kinh tế - xã hội với các nước thuộc tiểu vùng sông Mê Kông và khu vực. Với lợi thế đó, Việt Nam ngày càng thu hút sự quan tâm, đầu tư của nhiều quốc gia trong và ngoài khu vực. Theo Quyết định số 355/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, thì mạng lưới đường bộ cao tốc quốc gia kết nối với các trung tâm kinh tế trọng điểm Bắc - Nam, các cửa khẩu, các cảng hàng không, các cảng biển quốc tế, các tuyến đường vành đai đô thị có nhu cầu vận tải lớn; tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam và hệ thống đường sắt đô thị tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh đang kiến tạo thành động lực phát triển quốc gia với mục tiêu đến năm 2030 nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, có nền kinh tế năng động, phát triển nhanh và bền vững; đẩy nhanh việc thực hiện các khâu đột phá trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt do tận dụng được các trục giao thông quốc gia, như: Quốc lộ Bắc - Nam (Quốc lộ 1A), đường cao tốc Bắc - Nam; đường sắt Bắc - Nam; đường Hồ Chí Minh và đường bộ ven biển Bắc - Nam, trong khi hành lang kinh tế phía Bắc cũng đã mở rộng theo các tuyến giao thông thuận lợi như Hà Nội - Lạng Sơn, Hà Nội - Cao Bằng, Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh… với các dự án cao tốc Hà Nội - Lạng Sơn; dự án cao tốc Hạ Long - Móng Cái; dự án cao tốc Bến Lức - Long Thành; dự án cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây… đã đem lại lợi ích thiết thực và lâu dài cho các địa phương.

Sự ra đời của hành lang kinh tế Đông - Tây tạo điều kiện cho các nước trong khu vực tiểu vùng sông Mêkông mở rộng (GMS) gồm: Lào, Thái Lan, Myanmar và Việt Nam tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác kinh tế nhằm thúc đẩy giao lưu thương mại, đầu tư và phát triển giữa các nước. Đây là cơ hội cho các nước tiếp cận tốt hơn nguồn tài nguyên khoáng sản, thuỷ, hải sản và năng lượng phục vụ các ngành sản xuất và chế biến, tăng cường quan hệ hợp tác thúc đẩy giao lưu thương mại, du lịch, dịch vụ và phát triển các hoạt động kinh tế thông qua việc sử dụng hiệu quả không gian kinh tế và hình thành khu vực kinh tế xuyên quốc gia, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập và xóa đói, giảm nghèo cho các khu vực dọc theo hành lang kinh tế.

Trước khi có Luật Quy hoạch, trong quá trình điều hành và hoạch định các chính sách kinh tế, nhà nước đã quan tâm nhiều đến việc phân vùng kinh tế và thực hiện việc lập quy hoạch các vùng kinh tế trọng điểm. Theo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, cả nước phân thành 6 vùng kinh tế - xã hội và 3 vùng kinh tế trọng điểm (Nghị định 92/2006/NĐ-CPcủa Chính phủ). Đến khi có Quyết định 492/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, thì thêm Vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Trong quá trình hình thành và phát triển, các vùng kinh tế - xã hội và vùng kinh tế trọng điểm đang phát huy lợi thế, tạo ra động lực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng tỉnh và của vùng cũng như của nền kinh tế quốc dân theo chiều hướng tích cực, góp phần ổn định nền kinh tế vĩ mô, đặc biệt là hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh lân cận. Quá trình hình thành vùng và phân vùng cũng đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đầu tư công, thu hút đầu tư phát triển kinh tế và tạo động lực kinh tế - xã hội. Mỗi một vùng có một số đặc điểm nổi trội, thế mạnh và hạn chế đặc thù so với các vùng khác, tạo ra những lợi thế tuyệt đối và tương đối nhất định đối với quá trình phát triển kinh tế, cụ thể:

(1) Vùng trung du và miền núi phía Bắc - Nằm trên hành lang kinh tế Bắc - Nam thuộc hợp tác Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng; là một trong những cửa ngõ thông ra biên và kết nối với ASEAN của các tỉnh miền Tây Trung Quốc. Đây cũng là vùng có nhiều cửa khẩu với nước láng giềng có thị trường lớn; tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú; có nhiều di sản văn hóa đặc sắc, nhất là của đồng bào các dân tộc thiểu số. Với tổng diện tích khoảng 100.965km2, chiếm 28,6% diện tích cả nước; với khoảng 30 dân tộc đang sinh sống, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước. Đây là vùng bảo đảm về an ninh môi trường sinh thái, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước và quốc phòng, an ninh của nước ta.

(2) Vùng đồng bằng sông Hồng là trung tâm về chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của cả nước; thuận lợi trong phát triển công nghiệp công nghệ cao, điện tử, phần mềm,…; là nơi tập trung các cơ sở sản xuất sản phẩm điện tử công nghệ hiện đại với nhiều nhà máy của các tập đoàn, công ty hàng đầu trong và ngoài nước như Samsung, LG, Panasonic, Vinfast… Bên cạnh đó, đồng bằng sông Hồng là vùng hội tụ nhiều lợi thế nhất, thuận lợi nhất trong việc thực hiện ba đột phá chiến lược về thể chế, kết cấu hạ tầng và nguồn nhân lực. Về thể chế, với lợi thế là vùng có Thủ đô Hà Nội, nên vùng đồng bằng sông Hồng có nhiều thuận lợi trong việc thí điểm những cơ chế, chính sách mới. Về kết cấu hạ tầng, đồng bằng sông Hồng là vùng có hệ thống giao thông kết nối tốt nhất của cả nước đã tạo động lực để liên kết thúc đẩy và chuyển dịch kinh tế của Vùng. Về nguồn nhân lực, đây là trung tâm hàng đầu về cung ứng nguồn nhân lực, không chỉ nguồn nhân lực chất lượng cao của các trường đại học mà còn cả nguồn nhân lực lao động phổ thông.

(3) Vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Miền Trung là địa bàn đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đóng vai trò chiến lược trong thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Dân số toàn vùng khoảng 20,2 triệu người, chiếm 21% tổng dân số và 28,9% diện tích tự nhiên cả nước.

Biển miền Trung là tài nguyên quốc gia, là mặt tiền biển của Việt Nam, chiều dài đường bờ biển 1.900 km là vùng có vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế biển và các hoạt động kinh tế trên dải đất liền ven biển. Miền Trung còn là cửa ngõ ra biển của vùng Tây Nguyên, là bệ đỡ cho các tỉnh Tây Nguyên, kết nối tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây. Trong khu vực này có 11/17 Khu kinh tế ven biển của cả nước, gắn với nhiều cảng biển lớn, có 9 cảng hàng không, trong đó có 5 cảng quốc tế, có đường bộ, đường cao tốc, đường sắt, đường thủy, hệ thống thông tin liên lạc khá đồng bộ. Nơi đây còn có trên 80 di tích lịch sử, văn hóa đã được xếp hạng, nhiều bãi biển đẹp nhất Việt Nam và một số hệ sinh thái điển hình như đầm phá, vùng cát, san hô; đưa khu vực này trở thành nơi phát triển du lịch tầm cỡ trong khu vực và trên thế giới.

(4) Vùng Tây Nguyên. Theo Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã xác định Tây Nguyên là một trong 7 vùng du lịch trọng điểm của cả nước với những nét đặc trưng riêng của các điều kiện tự nhiên và những giá trị bản sắc văn hóa đặc sắc của các dân tộc bản địa, có thể cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế. Vùng Tây Nguyên có tổng diện tích tự nhiên là 54.640,6km2 (chiếm 16,5% diện tích cả nước, có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị, quốc phòng an ninh đối với cả nước và khu vực Đông Dương. Nằm ở khu vực ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia, tiếp giáp với các vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ, vùng Tây Nguyên có điều kiện thuận lợi để mở rộng giao lưu phát triển kinh tế, đặc biệt là du lịch với nhiều vùng trong cả nước và quốc tế. Tây Nguyên còn là vùng sản xuất hàng hóa tập trung hàng hóa có quy mô lớn, theo hướng nông nghiệp chất lượng cao, công nghệ sạch và có giá trị gia tăng cao, vùng chuyên canh lớn cây công nghiệp, góp phần quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của cả nước.

(5) Vùng Đông Nam Bộ là vùng có vị trị, vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long được kỳ vọng sẽ là điểm nhấn để bứt phá trong công cuộc phát triển chung. Với tổng số diện tích tự nhiên là 23.564km2, chiếm 7,3 % diện tích cả nước. Cả vùng chiếm khoảng 45% GDP, 50% tổng giá trị sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu cả nước. GRDP tính theo đầu người cao gấp 2 lần mức bình quân của cả nước; hơn 1,7 lần so với vùng đồng bằng sông Hồng; có tỷ lệ đô thị hóa cao nhất nước; tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng luôn cao hơn khoảng 1,3 lần đến 1,5 lần tốc độ tăng trưởng bình quân chung cả nước. Với vị trí nằm liền kề đồng bằng sông Cửu Long, cửa ngõ phía Tây nối với các nước Campuchia, Thái Lan, Malaysia thông qua mạng lưới đường bộ xuyên Á; phía Đông có hệ thống cảng biển Sài Gòn, Bà Rịa - Vũng Tàu, Thị Vải, khu vực Đông Nam Bộ còn hội tụ đầy đủ các điều kiện tự nhiên và nhân văn để phát triển các loại hình du lịch về nguồn, du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch biển. Là vùng tập trung lực lượng lao động đông đảo, có trình độ cao, được chọn để thí điểm nhiều cơ chế, chính sách mới về phát triển kinh tế. Với hệ thống cảng, sân bay quốc tế lớn nhất cả nước, vùng Đông Nam Bộ đã trở thành trung tâm du lịch, phát triển các loại hình dịch vụ công nghiệp, công nghệ thông tin, viễn thông, logistics,... lớn nhất Việt Nam. Vùng có Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm thương mại, tài chính, ngân hàng, chứng khoán lớn nhất cả nước.

(6) Vùng đồng bằng sông Cửu Long có vị trí địa kinh tế, địa chiến lược quan trọng, hội đủ những yếu tố, tiềm năng, thế mạnh của kinh tế nông nghiệp và kinh tế biển. Với diện tích gần 4 triệu héc-ta, hằng năm sản xuất trên 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản, 70% các loại trái cây xuất khẩu, 95% lượng gạo và 60% lượng cá của cả nước. Đây là trung tâm sản xuất nông nghiệp, giữ vai trò đặc biệt quan trọng, bảo đảm an ninh lương thực. Về kinh tế biển, đồng bằng sông Cửu Long với hơn 700km bờ biển và trên 360.000km2 vùng biển nằm trong vùng đặc quyền kinh tế. Biển có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh, là bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Sự tương đồng về điều kiện tự nhiên như: khí hậu, địa hình, tài nguyên đất đai, khoáng sản… là căn cứ để xây dựng chính sách phát triển hướng tới việc khai thác tổng thể, hiệu quả và bền vững các điều kiện tự nhiên của vùng. Về phương diện pháp lý, vùng không phải là đơn vị quản lý hành chính nhà nước, nhưng trên thực tế lại là đơn vị lãnh thổ phục vụ hoạch định chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội theo lãnh thổ, cũng như để quản lý các quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên mỗi vùng và liên kết phát triển các đơn vị hành chính trong và ngoài vùng.

Nhờ có quy hoạch vùng với các chính sách phát triển vùng trong đó mà trên cả nước đã định hình sự phân công lao động xã hội giữa các vùng với các sản phẩm chủ lực gắn với đặc điểm vùng (như lúa, thủy sản, cây ăn trái ở vùng đồng bằng sông Cửu Long; lúa, rau, cây ăn trái ở vùng đồng bằng sông Hồng; cà phê, cao su, tiêu ở vùng Tây Nguyên...). Về công nghiệp cũng đã định hình một số sản phẩm tiêu biểu ở các vùng (như sản phẩm công nghệ cao tập trung ở một số tỉnh, thành phố thuộc vùng đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ; sản phẩm công nghiệp nặng ở vùng ven biển miền Trung...). Các chính sách kinh tế đặc thù cụ thể đã hỗ trợ và giúp định hình và phát triển sự phân công lao động của các vùng, như các chính sách về thủy lợi, về tiêu thụ nông sản ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, vùng Tây Nguyên... Các chính sách xã hội đặc thù, cụ thể đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng miền núi phía Bắc, vùng Tây Nguyên, vùng Tây Nam Bộ (đồng bằng sông Cửu Long) đã giúp không chỉ xóa đói, giảm nghèo mà còn cải thiện đáng kể sinh kế, thu nhập và cuộc sống của họ.

Về 4 vùng kinh tế trọng điểm:

(1) Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ là khu vực có tiềm năng kinh tế - xã hội tương đối đa dạng, có vị trí địa chính trị, địa kinh tế rất đặc biệt, đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ còn là đầu mối giao thương bằng cả đường biển, đường sắt và đường hàng không của cả vùng, cả nước với quốc tế. Ngoài các cụm cảng biển quan trọng nhất cả nước như các cảng lớn (Hải Phòng, Cái Lân), vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ còn có sân bay quốc tế Nội Bài, có các đường quốc lộ, đường sắt, đường sông toả đi các vùng khác trong cả nước và đi quốc tế. Tỷ lệ đô thị hoá của vùng đạt trung bình cao trên cả nước (51- 52%). Nhờ đô thị phát triển mạnh nên đã tạo ra sự phát triển chung cho cả vùng, tạo sức hút mạnh đối với các nhà đầu tư nước ngoài đến vùng và các vùng xung quanh.

(2) Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung là vùng có tiềm năng lớn về cảng biển trung chuyển lớn, công nghiệp đóng tàu và dịch vụ hàng hải, phát triển du lịch nghỉ dưỡng với nhiều di sản thế giới. Bờ biển dốc với nhiều dãy núi đâm ngang tạo thành các cảng biển nước sâu. Hệ thống sông suối, độ dốc lớn đã phát triển hệ thống thủy điện bậc thang hiệu quả, và là khu vực có điều kiện phát triển nguồn năng lượng mặt trời. Thành phố Đà Nẵng trong 25 năm qua đã có sự bứt phá mạnh mẽ về tốc độ đô thị hóa và du lịch đẳng cấp cao. Các địa phương khác như Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định cũng có những bước phát triển nhảy vọt.

(3) Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; là vùng duy nhất hiện nay hội tụ đủ các điều kiện và lợi thế để phát triển công nghiệp, dịch vụ, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đặc biệt phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp điện tử, tin học, công nghiệp dầu khí và sản phẩm hoá dầu; phát triển dịch vụ cao cấp, dịch vụ du lịch, dịch vụ viễn thông, tài chính, ngân hàng; nghiên cứu, ứng dụng và triển khai khoa học và công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao… Với các lợi thế so sánh nổi bật do nằm ở vị trí địa kinh tế độc đáo, mang ý nghĩa cả nước và cả khu vực Đông Nam Á; nằm trên các trục giao thông quan trọng của cả nước, quốc tế và khu vực; có Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm lớn nhất cả nước về kinh tế, công nghiệp, thương mại, dịch vụ, khoa học - kỹ thuật; có Vũng Tàu là thành phố cảng và dịch vụ công nghiệp nằm ở "mặt tiền Duyên hải" phía Nam, là cầu nối và "cửa ngõ" lớn giao lưu kinh tế với thế giới; Bình Dương, Biên Hòa và khu vực dọc theo đường 51 có điều kiện thuận lợi để phát triển công nghiệp, có trục đường xuyên Á chạy qua...; Có hệ thống đô thị, các khu công nghiệp đang trong quá trình phát triển vượt bậc, là một trong những vùng kinh tế phát triển năng động nhất, chuyển dịch cơ cấu nhanh so với các vùng khác trong cả nước

(4) Vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long là trung tâm lớn về sản xuất lúa gạo, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản, có đóng góp lớn vào xuất khẩu nông thủy sản của cả nước. Ngoài ra, vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long còn đóng vai trò quan trọng trong chuyển giao công nghệ sinh học, cung cấp giống, các dịch vụ kỹ thuật, chế biến và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp cho cả vùng đồng bằng sông Cửu Long. Vùng có vị trí địa kinh tế quan trọng, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội và giao thương với khu vực. Nằm ở cực của Tổ quốc, tiếp giáp với Campuchia thông qua vịnh Thái Lan; giáp với biển Đông với bờ biển dài. Đây là điều kiện thuận lợi phát triển giao lưu thương mại và du lịch với khu vực. Hệ thống đô thị trong vùng khá phát triển, trong đó có thành phố Cần Thơ là thành phố trực thuộc Trung ương. Cơ sở hạ tầng từng bước hoàn thiện, đã, đang và sẽ tạo sức hút mạnh đối với các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời thu hút lực lượng lao động từ vùng nông thôn tới làm việc, tạo cục diện mới cho tăng trưởng kinh tế và giao thương quốc tế.

 Có thể nhận thấy, trong những năm qua, các vùng kinh tế trọng điểm đã đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Bình quân hằng năm giai đoạn 2011 - 2019, cả bốn vùng kinh tế trọng điểm đóng góp 72,95% vào tốc độ tăng bình quân GDP của toàn bộ nền kinh tế. Các vùng kinh tế trọng điểm là các cực tăng trưởng quan trọng, thể hiện vai trò đầu tàu, dẫn dắt cả nước. Cứ 1% tăng trưởng của bốn vùng kinh tế trọng điểm sẽ làm GDP của toàn bộ nền kinh tế tăng 0,61%.

Các chính sách ưu đãi được xác định trong quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm đã tạo điều kiện thuận lợi để vùng thể hiện và đảm nhận được vai trò đầu tàu, động lực vùng. Các vùng kinh tế trọng điểm được quy hoạch thực tế đã có mức tăng trưởng kinh tế cao hơn so với mức chung của cả nước, khoảng 1,2-1,25 lần.

II. Những "nút thắt" trong hợp tác và liên kết các không gian lãnh thổ kinh tế - xã hội ở Việt Nam

Lãnh đạo nhiều địa phương, bộ, ngành cho rằng, vấn đề liên kết vùng, nội vùng vẫn tồn tại nhiều “nút thắt”, đó là: Việc xác định phương hướng phát triển, sắp xếp không gian và phân bổ nguồn lực cho các hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường có tính liên ngành, liên tỉnh và liên vùng trên cơ sở phát huy tiềm năng, thế mạnh của vùng còn nhiều lúng túng; tính liên kết giữa các địa phương, các vùng còn lỏng lẻo, mang tính tự phát. Còn tồn tại nhiều vấn đề bức thiết mà một địa phương không thể tự giải quyết được, đó là: Phát triển hạ tầng, quản lý ô nhiễm và đầu tư ở các vùng kinh tế trọng điểm; vùng kinh tế - xã hội; phát triển vùng phía tây miền Trung; phát triển các vùng ven biển hải đảo, bãi ngang; tình trạng xâm nhập mặn ở vùng đồng bằng sông Cửu Long; khô hạn và quản lý nguồn nước ở Tây Nguyên; quản lý rừng và sinh thái vùng miền núi phía Bắc...

Quá trình phân tán nguồn lực theo đơn vị địa lý hành chính (tỉnh) đã dẫn đến tình trạng thiếu thống nhất về phân bổ nguồn lực, hình thành cuộc chạy đua xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng (bến cảng, sân bay…), và một số loại sản phẩm với cơ cấu kinh tế tương tự nhau… dẫn đến lãng phí nguồn lực. Thông tin mất cân xứng và minh bạch, khiến cho việc tìm hiểu môi trường kinh doanh trở nên khó khăn, gia tăng chi phí tìm hiểu và gia nhập thị trường làm giảm sức cạnh tranh. Một số địa phương “cạnh tranh” không lành mạnh khi đưa ra nhiều ưu đãi để thu hút đầu tư...

Tư duy kinh tế theo ranh giới hành chính vẫn mang tính chất chủ đạo, chưa có ý niệm vùng. Các tiềm năng, thế mạnh chưa được khai thác triệt để, hiệu quả. Thiếu một tầm nhìn chiến lược chung cho cả khu vực; tài nguyên đất, nước và môi trường khai thác sử dụng chưa hiệu quả; số lượng và chất lượng lao động chưa đáp ứng yêu cầu; kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, không tương xứng với tiềm năng, lợi thế vốn có; nguồn lực đầu tư rất hạn chế, thiếu nền tảng thu hút đầu tư tư nhân; chậm đổi mới, ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất...

 Liên kết nội vùng (ở một số vùng) còn yếu, các tỉnh trong vùng thiếu liên kết, tương tác với nhau.

Khi xác định địa bàn vùng, chưa đánh giá kỹ những nhân tố, yếu tố hình thành vùng, còn đặt nặng tính đồng nhất về điều kiện tự nhiên so với tính liên kết kinh tế - xã hội giữa các địa phương trong mỗi vùng nên sự liên kết phát triển còn hạn chế. Một nguyên nhân quan trọng khác là năng lực cạnh tranh của vùng và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chậm được cải thiện, nhất là kết nối hạ tầng giao thông, thiếu kết nối nội vùng và liên vùng, hạn chế này bộc lộ rất rõ ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Về tổ chức lãnh thổ ở nhiều nơi còn tình trạng chồng chéo, không ăn khớp, thậm chí có trường hợp gây lãng phí lớn về kinh tế.

Quy hoạch và phát triển các khu công nghiệp chưa mang tính vùng; chưa đồng bộ với quy hoạch phát triển đô thị, khu dân cư nông thôn, hạ tầng kinh tế - xã hội. Các mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị nông sản giữa doanh nghiệp và nông dân chưa nhiều. Du lịch phát triển chưa bền vững, hiệu quả chưa cao.

Chưa chú ý nhiều đến việc tạo ra không gian phát triển mới, thúc đẩy hội nhập kinh tế, liên kết liên vùng, quốc tế để nâng cao năng lực cạnh tranh, giải quyết những vấn đề về môi trường và phát triển bền vững

Các vùng kinh tế trọng điểm được hình thành từ một số tỉnh, thành phố của vùng kinh tế - xã hội (vùng trong vùng). Thực tế này phản ánh quy hoạch 2 loại vùng (kinh tế - xã hội và kinh tế trọng điểm) không thật rõ ràng

Hiện chưa có nghiên cứu nào tập trung vào đánh giá toàn diện và chính thức về chính sách phát triển vùng, mặc dù vùng và phát triển vùng có vị trí quan trọng trong quản lý phát triển ở nước ta hiện nay. Thiếu những điểm đột phá trong chính sách liên kết các địa phương, liên kết vùng, thúc đẩy tăng trưởng, chưa có cơ quan quản lý phát triển vùng.

Về phát triển kinh tế biển, còn thiếu tầm nhìn dài hạn trong quy hoạch cảng biển. Giao thông kết nối còn nhiều bất cập, dịch vụ logistics phát triển còn manh mún và chưa tương xứng. Nhiều địa phương còn thụ động về quy hoạch phát triển và bị động về kinh phí, cơ chế quản lý phát triển kết cấu hạ tầng dịch vụ hỗ trợ cho cảng biển, về thẩm quyền bảo đảm lợi ích cho nhà đầu tư, quy hoạch sử dụng đất đai chưa phù hợp. Ngoài tác động của các yếu tố an ninh, quốc phòng, cạnh tranh của các nước lớn, vấn đề biến đổi khí hậu, nước biển dâng, tình hình cạn kiệt nguồn tài nguyên biển, ô nhiễm môi trường biển thì tác động mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 cũng tạo ra cơ hội và thách thức trong phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam.

Hầu hết các địa phương trên các hành lang kinh tế đều có kinh tế chưa phát triển; mật độ dân cư thưa thớt, trình độ dân trí, khoa học công nghệ thấp; tỷ lệ đói nghèo còn cao; địa hình chia cắt khó khăn

Mô hình khu kinh tế cửa khẩu là một công cụ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với việc xây dựng và phát triển quan hệ đối ngoại, tuy nhiên trong thời gian gần đây nhiều khu kinh tế của khẩu chưa tạo ra thặng dư thương mại, trong khi các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã được ký kết nhiều hơn, các lợi thế về lao động giá rẻ, ưu đãi về thuế, đất đai không còn… nếu không có sự thay đổi sẽ khó có thể duy trì được sự phát triển.

Với những phân tích ở trên cho thấy, cần phải có những nghiên cứu cụ thể về cơ chế vùng, liên vùng để điều tiết, kiểm soát, phát huy tối đa khả năng liên vùng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Các giải pháp thực hiện phải có tính đột phá về thể chế, phát triển nhân lực và phát triển kết cấu hạ tầng, tạo sức hấp dẫn mới để thu hút các nguồn lực trên quy mô vùng.

III. Một số đề xuất trong tổ chức lại không gian lãnh thổ kinh tế - xã hội nhằm thúc đẩy hợp tác và liên kết để sử dụng hiệu quả các nguồn lực

Với 6 vùng kinh tế - xã hội, 4 vùng kinh tế trọng điểm và lợi thế phát triển kinh tế biển, khu kinh tế cửa khẩu, và hệ thống giao giao thông xuyên Á, và nằm trong trục chính của Hành lang kinh tế Đông - Tây cho thấy Việt Nam đang có nhiều tiềm năng và lợi thế so sánh trong khu vực. Liên kết kinh tế, liên kết vùng là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Liên kết vùng không chỉ giúp tăng cường lợi thế cạnh tranh mà còn tạo điều kiện phát huy những tiềm năng, lợi thế của từng địa phương và cả vùng trong phát triển kinh tế, bảo đảm quốc phòng - an ninh, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên sự hợp tác và thúc đẩy liên kết để sử dụng hiệu quả nguồn lực vẫn còn nhiều rào cản, “nút thắt”, chưa phát triển như mong muốn.

Vì vậy, để tiếp tục khai thác tiềm năng, thế mạnh phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, hướng tới sự phát triển bền vững cần tiếp tục quán triệt, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của liên kết vùng, tập trung khai thác thế mạnh của từng vùng để bổ trợ lẫn nhau cùng phát triển; cần có chính sách ưu đãi nhằm thu hút các nguồn lực đầu tư vào các ngành khai thác lợi thế so sánh, phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội của vùng; thực hiện tốt công tác bảo tồn sinh thái, giữ gìn văn hóa, bảo đảm an ninh chính trị, an ninh biên giới. 

Việc tổ chức lại không gian lãnh thổ vùng kinh tế - xã hội cần bảo đảm tính thống nhất, tạo ra được tính gắn kết; bảo đảm sự gắn bó đặc biệt theo chiều ngang giữa các địa phương, các tỉnh, giữa trung ương và địa phương, coi công tác quy hoạch vùng như là một trong những nội dung quan trọng trong tổ chức lãnh thổ. Hoàn thiện các dự án quy hoạch nhằm mục đích khắc phục một số thiếu sót, đặc biệt là việc xử lý liên ngành, liên vùng và luận chứng các phương án, các điều kiện thực hiện kế hoạch chưa được chỉ rõ; Quy hoạch đô thị và vùng lãnh thổ phải là chất xúc tác cho tăng trưởng kinh tế bền vững và toàn diện, cung cấp một bộ khung thuận lợi cho các cơ hội kinh tế mới.

Tăng cường hài hòa giữa đô thị - nông thôn và an ninh lương thực, đẩy mạnh mối quan hệ và phối hợp giữa các thành phố, liên kết quy hoạch đô thị trong phát triển vùng để bảo đảm tính gắn kết giữa các vùng lãnh thổ, bao gồm cả khu vực biên giới.

Ưu tiên tập trung nguồn lực để phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn trong các vùng lãnh thổ dựa vào lợi thế tự nhiên, năng lực sản suất, phân khúc thị trường để tối ưu hóa nguồn lực và sức cạnh tranh tốt.

 Phải tạo nên một cơ chế ra quyết định mạnh mẽ để bảo đảm tăng trưởng kinh tế bền vững, phát triển xã hội, môi trường bền vững nhằm thúc đẩy tính kết nối giữa các vùng lãnh thổ.

Để phát triển kinh tế biển Việt Nam theo hướng bền vững cần xây dựng một quy hoạch sử dụng biển cho toàn quốc mang tính tổng hợp với phương thức tiếp cận sinh thái, bảo đảm tối ưu hóa các lợi ích, tạo sinh kế, phúc lợi cho người dân từ biển. Tận dụng các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 trong nghiên cứu về hàng hải, chế biến hải sản, nuôi trồng thủy, hải sản, năng lượng tái tạo, chủ động phòng, tránh và giảm nhẹ thiên tai từ biển, thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng… Bảo đảm tốt liên kết vùng trong phát triển “chuỗi” khu kinh tế biển đảo, chuỗi đô thị ven biển và chuỗi đô thị đảo, nâng cao giá trị sản phẩm hàng hóa, sức cạnh tranh cho các ngành, địa phương và các vùng trong cả nước

Để thúc đẩy hội nhập quốc tế sâu rộng song phương và đa phương, cần đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông theo hướng đồng bộ, hiện đại, trong đó ưu tiên đầu tư đưa vào khai thác thông tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam từ Lạng Sơn đến Cà Mau, các tuyến đường bộ cao tốc trên các hành lang vận tải chủ yếu, các tuyến đường bộ cao tốc cửa ngõ kết nối với Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các đô thị lớn, kết nối thuận lợi với hệ thống đường bộ ASEAN, Tiểu vùng Mê Kông mở rộng và xuyên Á; tiếp tục nghiên cứu đầu tư các bến còn lại của cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện, cảng quốc tế Vân Phong, khu bến cảng quốc tế Cái Mép - Thị Vải; kết nối thuận tiện với mạng lưới giao thông quốc gia, từng bước tạo thành mạng lưới kết cấu hạ tầng giao thông logistic hiện đại, hiệu quả ngang tầm các nước trong khu vực. Hoàn thành mở rộng các cảng hàng không quốc tế Nội Bài, Tân Sơn Nhất theo quy hoạch và triển khai đầu tư dự án cảng hàng không quốc tế Long Thành. Tiếp tục huy động vốn đầu tư các tuyến đường thủy có nhu cầu vận tải lớn; phát triển mạng lưới đường sắt đô thị tại Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh để bảo đảm tỷ lệ vận tải hành khách công cộng đạt 40% - 45%.

Điều tiết và kiểm soát phát triển đô thị, xây dựng các chính sách mới kết hợp với các quy định về thị trường đất đai, sử dụng không gian đô thị một cách tối ưu, giảm thiểu chi phí hạ tầng, nhu cầu đi lại để giải quyết có hiệu quả những thách thức từ biến đổi khí hậu.

Về cơ chế chính sách, hoàn thiện cả về cơ chế chiều dọc và cơ chế chiều ngang trong liên kết (bao gồm cả liên kết vùng kinh tế và liên kết trong thể chế bộ máy tổ chức). Xác định rõ chủ thể, cấp bậc, trên dưới, quy định rõ chức năng nhiệm vụ và các hoạt động chế tài đi kèm một cách rõ ràng minh bạch, rõ ràng khi tham gia vào các hoạt động liên kết này. Đổi mới chính sách phát triển vùng phù hợp với đổi mới thể chế quản lý phát triển của Nhà nước, trong đó lợi ích vùng cần được coi là một nhân tố cơ bản. Thể chế cần được hoàn thiện theo hướng phù hợp với thể chế kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, tạo môi trường cho các nỗ lực phát triển. Trong quản lý phát triển vùng cần định hình rõ lợi ích vùng, lợi ích kinh tế trong các chính sách phát triển vùng, nhằm tạo ra sự kết nối trong liên kết phát triển vùng .

Ngoài ra cần tiếp tục xây dựng các chính sách đặc thù khác không chỉ cho các địa phương trong vùng mà còn cả ngoài vùng. Hình thành cơ quan quản lý vùng có đủ thẩm quyền và nguồn lực để điều phối, phối hợp các chính sách phát triển vùng. Coi phát triển kinh tế vùng như một quy luật tự thân của kinh tế thị trường; phát triển mối quan hệ giữa không gian kinh tế với không gian tự nhiên, sinh thái, xã hội và không gian chính sách và thể chế để tạo ra lợi thế cạnh tranh cho vùng, quốc gia, và là cơ sở phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

IV. BÀI HỌC TỪ QUẢNG NINH

Trong thời gian qua, mặc dù trải qua những ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh nhưng tỉnh Quảng Ninh vẫn có những bứt phá “ngoạn mục” trong phát triển. Trong 3 năm liền, tỉnh Quảng Ninh đứng đầu cả nước trong danh sách xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). Thu nhập bình quân đầu người vượt 6.700 USD, gấp đôi mức trung bình cả nước, trở thành một trong những cực tăng trưởng kinh tế toàn diện của khu vực phía Bắc.

Quảng Ninh được ví như hình ảnh nước Việt Nam thu nhỏ, có vị trí chiến lược về chính trị, kinh tế, quốc phòng - an ninh và đối ngoại; có biên giới trên bộ, trên biển và trên không với Trung Quốc; có vị trí rất quan trọng trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và cả nước; nằm trong Khu vực hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt - Trung”, hợp tác liên vùng vịnh Bắc Bộ, hành lang kinh tế Nam Ninh - Singapore, cầu nối quan trọng của hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc. Quảng Ninh là địa phương có nhiều cảnh quan có giá trị toàn cầu, như vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long, có hơn hai nghìn hòn đảo chiếm hơn 2/3 số đảo cả nước, trải dài theo đường ven biển hơn 250km chia thành nhiều lớp; có nguồn tài nguyên, khoáng sản phong phú, đa dạng, với trữ lượng than lớn nhất Đông Nam Á... Quảng Ninh còn là một trong 5 địa phương có tỷ lệ đô thị hóa cao nhất cả nước, đạt 65,5%, hiện tỉnh đang xây dựng Chương trình phát triển đô thị đến năm 2030 với mục tiêu hệ thống đô thị sẽ có 5 thành phố trực thuộc tỉnh (hiện nay đã có 4 thành phố trực thuộc tỉnh).

Với lợi thế và tiềm năng của mình, lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh nhận thấy vai trò quan trọng của việc thúc đẩy hợp tác, liên kết vùng trong phát triển kinh tế - xã hội và coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của tỉnh trong quá trình phát triển. Việc thúc đẩy liên kết, hợp tác, trong đó có liên kết, hợp tác vùng, sẽ mở ra nhiều cơ hội phát triển kinh tế - xã hội cho các địa phương, nhất là trong phát triển hạ tầng giao thông kết nối, thu hút đầu tư, mở rộng các lĩnh vực phát triển thế mạnh. Những năm qua, Quảng Ninh đã tích cực hợp tác, liên kết với nhiều tỉnh/thành thông qua các chương trình đánh giá công tác phối hợp chung trên nhiều lĩnh vực, dựa trên thế mạnh và tiềm năng riêng của từng địa phương, hướng đến mục tiêu phát triển dài hạn chung.

Trong đó phải kể đến những hợp tác mang tính chiến lược với thành phố Hải Phòng như: triển khai thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ; kết nối hạ tầng giao thông tuyến cao tốc Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long, thúc đẩy phát triển vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, thúc đẩy hợp tác hoạt động của chuỗi cung ứng dịch vụ logistics kết nối Hải Phòng - Quảng Ninh. Hỗ trợ, phối hợp với thành phố Hải Phòng trong việc xử lý thủ tục hành chính cho các doanh nghiệp, khai thác có hiệu quả cảng biển Quảng Ninh và cảng biển Hải Phòng; ban hành quy chế phối hợp, góp phần kết nối khu vực tam giác phát triển Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.

Trong công tác phát triển hạ tầng giao thông, tỉnh Quảng Ninh đã cùng Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình và Thanh Hóa đề xuất và được Thủ tướng Chính phủ đồng ý triển khai đầu tư xây dựng tuyến đường bộ ven biển từ Quảng Ninh đến Thanh Hóa.

Đáng chú ý, Quảng Ninh và Hải Phòng đã hoàn thiện nhiều công trình, dự án lớn, tạo động lực trong phát triển kinh tế - xã hội cũng như tăng cường kết nối vùng như: Công trình cầu Bạch Đằng, kết nối cao tốc Hà Nội - Hải Phòng với cao tốc Hải Phòng - Hạ Long; hoàn chỉnh tuyến kết nối tam giác phát triển kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, hoàn thiện hạ tầng giao thông tuyến cao tốc ven biển vùng duyên hải Bắc Bộ...

Về lĩnh vực du lịch và dịch vụ, tỉnh đã hợp tác với nhiều địa phương như Hải Dương, Bắc Giang, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Nha Trang… để đẩy mạnh và phát triển hoạt động du lịch, trao đổi du khách, bảo đảm tính bền vững cũng như phát triển giá trị văn hóa. Việc đệ trình UNESCO thành công Hồ sơ đề cử Di sản Thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà cũng là một trong những dấu mốc quan trọng cho thấy sự phối hợp hiệu quả của chính quyền tỉnh Quảng Ninh và thành phố Hải Phòng, đánh dấu bước phát triển mới của 2 địa phương về liên kết quản lý vùng.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, Quảng Ninh thực hiện nhiều chương trình phối hợp tiêu thụ nông sản tới các địa phương như Hà Nội, Hải Dương, Bắc Ninh; nâng cao trách nhiệm công tác phối hợp trong quản lý bảo vệ rừng tại cơ sở nơi giáp ranh với tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang; liên kết, phối hợp kết nối với một số địa phương lân cận như Hòa Bình, Cao Bằng, Tuyên Quang, Hà Giang, Hải Dương, Hải Phòng... để thu hút, tuyển dụng lao động tỉnh ngoài vào làm việc tại các doanh nghiệp, nhà đầu tư trên địa bàn tỉnh…

Trong tuyến hành lang Đông - Tây của tỉnh, tuyến hành lang phía Tây được xác định từ thành phố Hạ Long đến thị xã Đông Triều, hướng tới đồng bằng sông Hồng và Thủ đô Hà Nội đã được định hướng phát triển thành chuỗi đô thị - công nghiệp xanh, công nghiệp sạch, công nghệ cao và du lịch văn hóa, lịch sử, tâm linh; trong đó khu kinh tế ven biển Quảng Yên là hạt nhân, động lực tăng trưởng mới của tuyến phía Tây và của tỉnh. Tuyến hành lang phía Tây còn được xác định có lợi thế lớn để phát triển theo hướng dịch vụ, cảng biển, logistics, đô thị hiện đại, công nghệ cao. Bởi khu vực này còn dư địa rất lớn có thể khai thác từ đất đai, cảng biển, lại là địa bàn giáp ranh với các địa phương khác trong cả nước.

Tuyến hành lang phía Đông, xuất phát từ thành phố Hạ Long đến thành phố Móng Cái và hướng tới thị trường Đông Bắc Á, sẽ phát triển chuỗi đô thị sinh thái - dịch vụ, thương mại, du lịch tổng hợp cao cấp, nông nghiệp sạch - công nghệ cao và kinh tế biển, lấy phát triển công nghiệp để dẫn dắt nông nghiệp. Định hướng phát triển này nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh cũng như sự gắn kết, tương trợ lẫn nhau giữa các các địa phương trong tuyến hành lang Đông - Tây. Đối với tuyến hành lang phía Đông, Khu kinh tế Vân Đồn và khu kinh tế Cửa khẩu Móng Cái được xác định là 2 mũi đột phá trong phát triển của tỉnh. Đặc biệt là sân bay quốc tế Vân Đồn, là một điểm đến rất quan trọng của Quốc tế đến với Quảng Ninh. Việc sáp nhập huyện Hoành Bồ vào thành phố Hạ Long đã tạo cơ hội mở rộng không gian phát triển, tăng cường liên kết, phát huy thế mạnh vượt trội của thành phố Hạ Long và của từng địa phương trong tỉnh cũng như thế mạnh của tỉnh trong Vùng đồng bằng sông Hồng và Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.

Khu kinh tế ven biển Quảng Yên được được Chính phủ cho ý kiến thành lập với cơ chế, chính sách tương đương khu kinh tế Đình Vũ - Cát Hải (thành phố Hải Phòng). Cùng với tuyến cao tốc này, tuyến đường ven sông tốc độ cao Quảng Yên - Uông Bí - Đông Triều, tuyến cao tốc Hạ Long - Vân Đồn và Vân Đồn - Móng Cái đã tạo thuận lợi đối với hạ tầng giao thông các địa phương trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.

Còn đối với khu kinh tế Cửa khẩu Móng Cái, từ lâu đã được xây dựng với mục tiêu trở thành trung tâm phát triển kinh tế quan trọng của vùng Bắc Bộ, của vành đai kinh tế ven biển Vịnh Bắc Bộ và đầu mối hành lang kinh tế Côn Minh (Trung Quốc) - Hà Nội - Hải Phòng - Móng Cái (Việt Nam) - Phòng Thành (Trung Quốc). Trên cơ sở đề xuất từ tỉnh, tháng 3-2021, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng khu kinh tế Cửa khẩu Móng Cái đến năm 2040. Theo quy hoạch này, thành phố Móng Cái và thị trấn Quảng Hà mở rộng trở thành đô thị hiện đại gắn với xây dựng khu công nghiệp Cảng biển Hải Hà, khu công nghiệp Hải Yên; là trung tâm du lịch quốc gia, quốc tế, trung tâm dịch vụ cửa khẩu và hậu cần cảng biển, trung tâm tài chính, thương mại, dịch vụ biên giới; là phòng tuyến vững chắc bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia.

Sự nhất quán trong mục tiêu phát triển, kiên trì thực hiện tổ chức không gian phát triển “Một tâm, hai tuyến đa chiều và hai mũi đột phá” trong đó có việc định hình không gian phát triển trên tuyến hành lang Đông - Tây, đã giúp cho Quảng Ninh bứt phá trong chiến lược phát triển, tạo thế mạnh của tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. 

Việc tháo gỡ những nút thắt, điểm nghẽn về thể chế, chính sách, nguồn lực trong đó có cả những cơ chế mang tính đặc thù cũng đã đóng vai trò quyết định đối với việc hiện thực hóa khát vọng phát triển của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Quảng Ninh, đưa Quảng Ninh trở thành một trong những cực tăng trưởng kinh tế toàn diện của khu vực phía Bắc, với các ngành, lĩnh vực mũi nhọn, như trung tâm dịch vụ du lịch, giải trí hàng đầu Việt Nam; kinh tế biên mậu và kinh tế biển trong vai trò là trung tâm giao thương quốc tế lớn và hiện đại của vùng kinh tế Bắc Bộ.

Phát triển vùng nói chung và chính sách phát triển vùng nói riêng ở Việt Nam hiện vẫn đang là một lĩnh vực còn nhiều khoảng trống. Bên cạnh những thành tựu vẫn còn những hạn chế trong chính sách phát triển vùng, hạn chế nổi bật nhất là: sự chồng chéo, chồng lấn trong quy hoạch; thiếu “chất kết dính” (lợi ích) trong liên kết phát triển vùng; và thiếu cơ quan quản lý vùng. Bối cảnh phát triển mới của đất nước, đặc biệt là chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang chú trọng chiều sâu và bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, ứng phó với biến đổi khí hậu đòi hỏi tất yếu phải có sự kết nối các không gian lãnh thổ kinh tế - xã hội để sử dụng hiệu quả các nguồn lực và phát triển bền vững, phù hợp với tính thần của Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 15-1-2019 của Bộ Chính trị về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế./.

--------------------------

(1) Chính sách và giải pháp thúc đẩy liên kết phát triển vùng đô thị: tổng quan từ kinh nghiệm quốc tế và gợi ý chính sách cho Việt Nam, Tạp chí Quy hoạch Xây dựng 109-110/2021
(2) Quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam, Báo điện tử Con số và Sự kiện
(3) Mô hình phát triển cho các khu kinh tế cửa khẩu: Bối cảnh mới, những vấn đề đặt ra và một vài gợi ý, TS. Nguyễn Đức Kiên- TS. Chu Khánh Lân
(4) Quy hoạch đô thị và vùng lãnh thổ, Tài liệu của UNHabitat
(5) Báo cáo nghiên cứu phân vùng phục vụ quy hoạch giai đoạn 2021- 2030, Viện nghiên cứu Chiến lược- Bộ Kế hoạch& Đầu tư

(6) “Đôi cánh” của Quảng Ninh trong chiến lược phát triển- Báo điện tử Quảng Ninh
(7) Tỉnh Quảng Ninh - đột phá bắt đầu từ tư duy lãnh đạo, tầm nhìn và khát vọng phát triển, Tạp chí cộng sản