Xây dựng giai cấp nông dân và Hội Nông dân Việt Nam vững mạnh, góp phần phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
19:45, ngày 24-12-2023
TCCS - Năm năm qua (2018 - 2023), công tác hội và phong trào nông dân Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả nổi bật trên mọi lĩnh vực. Trước vận hội, thách thức mới, Hội Nông dân Việt Nam xác định phương hướng chung giai đoạn sắp tới (2023 - 2028) là xây dựng Hội vững mạnh; phát huy vai trò là chủ thể, trung tâm của giai cấp nông dân trong phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Những kết quả nổi bật qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nông dân Việt Nam lần thứ VII, nhiệm kỳ 2018 - 2023
Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Thời gian qua, nông nghiệp tiếp tục khẳng định được vai trò, vị trí quan trọng, là lợi thế quốc gia, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực, trở thành trụ đỡ của nền kinh tế. Sản xuất nông nghiệp phát triển cả về quy mô và trình độ, từng bước chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao với nhiều vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn, tạo ra nhiều sản phẩm chủ lực(1) làm thay đổi và tạo ra phương thức sản xuất mới thúc đẩy công nghiệp chế biến, dịch vụ phát triển, tạo việc làm và tăng thu nhập cho nông dân. Xuất khẩu nông nghiệp tăng nhanh cả về sản lượng, giá trị và tỷ trọng sản phẩm chất lượng cao, đưa Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về gạo, thủy sản và một số nông sản khác(2). Trình độ, tư duy sản xuất, kinh doanh nông nghiệp của nông dân từng bước được nâng cao, dần thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nông dân là lực lượng đông đảo trong xã hội, chiếm hơn 1/3 dân số cả nước và chiếm 49,17% số hộ ở nông thôn với hơn 9,1 triệu hộ nông dân. Giai cấp nông dân luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và chính sách của Nhà nước, đã phát huy tốt hơn vai trò chủ thể trong phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, đặc biệt là trong xây dựng nông thôn mới; tích cực tham gia cơ cấu lại nông nghiệp, phát huy vai trò kinh tế hộ gia đình, phát triển kinh tế trang trại, tham gia hợp tác, liên kết theo mô hình tổ hợp tác, hợp tác xã, liên kết với doanh nghiệp sản xuất quy mô lớn(3); từng bước làm chủ các phong trào ở nông thôn, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Trình độ của nông dân ngày càng được nâng cao, đời sống, thu nhập và việc làm không ngừng được cải thiện(4).
Nông thôn có nhiều thay đổi rõ rệt, khá toàn diện, thể hiện rõ vai trò là địa bàn chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; kinh tế nông thôn tiếp tục phát triển và chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ; cư dân nông thôn và nông dân từng bước chuyển đổi ngành, nghề, phát triển đa dạng hoạt động thương mại, dịch vụ hỗ trợ sản xuất và phục vụ dân sinh. Xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào sâu rộng và đạt được những kết quả quan trọng(5); kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và môi trường khu vực nông thôn được tăng cường, phát triển cả về số lượng và chất lượng, diện mạo nông thôn ngày càng khang trang, đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn không ngừng được cải thiện, giảm tình trạng đói nghèo, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa nông thôn và đô thị.
Về công tác hội và phong trào nông dân
Công tác hội và phong trào nông dân đã hoàn thành cơ bản với hầu hết chỉ tiêu thực hiện đạt và vượt so với chỉ tiêu Đại hội VII Hội Nông dân Việt Nam đề ra. Nội dung, phương thức hoạt động của các cấp hội có nhiều đổi mới, hướng mạnh về cơ sở; tổ chức tốt các phong trào nông dân mang lại hiệu quả thiết thực.
Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng được đẩy mạnh, thực hiện sâu rộng, kịp thời; tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ hội được củng cố, kiện toàn nâng cao hiệu quả hoạt động; chất lượng hội viên được nâng lên; công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật được chú trọng, thực hiện nghiêm túc, đúng quy định; thi đua, khen thưởng có nhiều đổi mới. Vai trò nòng cốt của hội trong xây dựng giai cấp nông dân ngày càng được khẳng định, góp phần nâng cao nhận thức chính trị, trình độ, kỹ năng sản xuất, kinh doanh, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho nông dân.
Các phong trào thi đua yêu nước do Hội phát động được lan tỏa sâu rộng, thu hút đông đảo cán bộ, hội viên nông dân tham gia, mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội và giảm nghèo bền vững. Hoạt động tư vấn, dịch vụ, hỗ trợ, đào tạo nghề, phát triển các mô hình kinh tế, tổ hợp tác, hợp tác xã tiếp tục được đẩy mạnh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động nông thôn, nâng cao đời sống của nông dân. Vai trò của Hội là trung tâm, nòng cốt cho các phong trào nông dân trong phát triển kinh tế nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và bảo vệ môi trường ngày càng được thể hiện rõ nét.
Hoạt động tham gia giám sát và phản biện xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế được tăng cường và đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần khẳng định vị trí của Hội Nông dân Việt Nam trong hệ thống chính trị và nâng cao uy tín, vị thế của Hội với bạn bè, đối tác quốc tế.
Đạt được những kết quả trên có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do có sự lãnh đạo toàn diện và sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ và chính quyền các cấp; sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể ở Trung ương, địa phương; thuận lợi, cơ hội của bối cảnh quốc tế và trong nước đã tạo luồng sinh khí mới, điều kiện thuận lợi cho hoạt động công tác hội và phong trào nông dân trong phát triển nông nghiệp, nông thôn; sự đổi mới trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Hội và hội nông dân các cấp; sự nỗ lực, phấn đấu của toàn thể cán bộ, hội viên, nông dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác hội và phong trào nông dân 5 năm qua cũng còn những hạn chế nhất định, như công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, hội viên, nông dân ở một số nơi đạt hiệu quả chưa cao, còn hình thức; việc nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và các vấn đề khó khăn, vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn sản xuất, đời sống của hội viên, nông dân có lúc, có nơi chưa kịp thời; một số cấp hội chưa chú trọng tổ chức đối thoại giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với hội viên, nông dân để tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, tiêu thụ nông sản. Tổ chức bộ máy của một số tỉnh hội, thành hội chậm được hoàn thiện, thiếu thống nhất, có khó khăn về điều kiện làm việc, việc bố trí cán bộ hội chưa thực sự hợp lý; trình độ, năng lực một số cán bộ hội các cấp chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các cấp hội ở một số địa phương chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng của xã hội, công nghệ và hội nhập quốc tế sâu rộng. Phong trào nông dân và hoạt động hội phát triển chưa đồng đều giữa các vùng, miền, các địa phương, chưa khơi dậy mạnh mẽ tiềm năng, sức sáng tạo của nông dân trong phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Về mặt khách quan, những hạn chế trên là do khủng hoảng kinh tế thế giới, do xung đột cục bộ, đại dịch COVID-19 cùng với những khó khăn do biến đổi khí hậu, thiên tai, bão, lũ đã ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất, kinh doanh, việc làm, thu nhập của hội viên, nông dân, hạn chế đến hoạt động công tác hội và phong trào nông dân. Nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa tương xứng với vị trí, vai trò của Hội, một số nơi chưa quan tâm đến công tác cán bộ, bố trí cơ sở vật chất cho hoạt động hội; một số cơ quan chính quyền chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm phối hợp với hội nông dân cùng cấp trong thực hiện nhiệm vụ về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; cơ chế phân phối tài chính, bổ sung nguồn vốn cho hoạt động hội chưa thật sự hợp lý. Nông dân làm nông nghiệp có xu hướng giảm về số lượng và già hóa, ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp, phong trào nông dân và phát triển hội viên. Việc dịch chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị làm việc theo mùa vụ dẫn đến hạn chế thời gian tham gia hoạt động hội của hội viên nông dân, ảnh hưởng đến chất lượng sinh hoạt hội ở cơ sở.
Về mặt chủ quan, một số cấp hội chưa chủ động bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, của hội nông dân cấp trên để xây dựng chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ trọng tâm hằng năm cho phù hợp với thực tiễn. Công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ của một số cấp hội chậm đổi mới, chưa quyết liệt, còn hình thức, chưa sát thực tế. Công tác dự báo, đề xuất một số chỉ tiêu phấn đấu chưa sát với điều kiện thực tế ở cơ sở; nhận thức của một số cán bộ hội về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và những vấn đề lớn đặt ra đối với hội nông dân và phong trào nông dân ở một số nơi còn hạn chế; cán bộ hội ở một số địa phương còn thiếu và yếu về trình độ, năng lực, một bộ phận chưa tích cực học tập nâng cao trình độ, chưa nhiệt tình, tâm huyết, sâu sát cơ sở. Sự phối hợp giữa hội nông dân các cấp với các cơ quan, tổ chức cùng cấp có lúc, có nơi còn thiếu chủ động, mang tính hình thức, một số nội dung chưa sát thực tế, thiếu trọng tâm, trọng điểm, triển khai chưa quyết liệt,…
Xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam và tổ chức hội vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới
Dự báo 5 năm tới, kinh tế - xã hội tiếp tục phát triển; chúng ta tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ (nhất là thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư), chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển đất nước nhanh và bền vững.
Dự báo đến năm 2028, dân số nước ta đạt mức 102,3 triệu người, trong đó dân số nông thôn ở mức 58 triệu người. Lao động nông nghiệp chiếm dưới 20% trong tổng lao động xã hội. Thời kỳ dân số vàng sẽ ngắn lại do lao động có xu hướng già hóa. Một bộ phận lao động tay nghề thấp bị dư thừa ở các đô thị, khu công nghiệp sẽ di chuyển về nông thôn tìm sinh kế từ nông nghiệp; phân tầng về mức độ thu nhập, sinh kế và cơ hội phát triển giữa các tầng lớp trong nội bộ giai cấp nông dân và giữa các giai tầng xã hội nông thôn sẽ càng sâu sắc; tình trạng thiếu việc làm; biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, khó lường; tác động tiêu cực từ không gian mạng đang và sẽ tiếp tục tác động lớn đến nông dân và xã hội nông thôn.
Tình hình trên sẽ tạo ra cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn, giai cấp nông dân và tổ chức hội, đòi hỏi hội nông dân các cấp vươn lên ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới với những giải pháp đồng bộ, quyết liệt trong thời gian tới.
Thứ nhất, xây dựng Hội Nông dân Việt Nam trong sạch, vững mạnh.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, phổ biến kịp thời đến đông đảo cán bộ, hội viên, nông dân chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là về lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn; tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; giáo dục truyền thống, lịch sử cho hội viên, nông dân. Đa dạng hóa và nâng cao tính hấp dẫn, thuyết phục trong nội dung, hình thức tuyên truyền. Từng bước phát triển hệ thống báo chí, thông tin tuyên truyền của Hội ngang tầm khu vực và bắt kịp xu thế thế giới; xây dựng hệ thống thông tin, truyền thông đa dạng dựa trên nền tảng công nghệ, tích hợp công nghệ mới, áp dụng thành tựu của cuộc cách mạng chuyển đổi số.
Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy hội nông dân các cấp tinh gọn, hoạt động hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ hội đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; phát triển và nâng cao chất lượng hội viên. Xây dựng đội ngũ cán bộ hội các cấp bảo đảm về số lượng, chất lượng; chăm lo xây dựng đội ngũ ban chấp hành, ban thường vụ hội nông dân các cấp có đủ năng lực, bản lĩnh chính trị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Chú trọng thu hút cán bộ trưởng thành từ thực tiễn về làm việc tại hội nông dân. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, tạo nguồn, đánh giá cán bộ hội các cấp; xây dựng lộ trình và thực hiện công tác luân chuyển cán bộ thuộc diện quy hoạch trong tổ chức hội để nâng cao trình độ, kinh nghiệm thực tiễn.
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hội nông dân các cấp, hướng mạnh về cơ sở. Phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của người đứng đầu các cấp hội trong chỉ đạo, tổ chức hoạt động hội phù hợp với thực tiễn phong trào nông dân ở từng địa phương; đẩy nhanh chuyển đổi số để nâng cao hiệu quả hoạt động công tác hội. Đổi mới, sáng tạo, đa dạng loại hình tập hợp, vận động nông dân. Thực hiện tốt công tác chăm lo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho hội viên, nông dân gắn với giải quyết kịp thời khó khăn, bức xúc, vấn đề phát sinh trong đời sống xã hội của nông dân. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua trong hội viên, nông dân để khuyến khích, động viên, thu hút hội viên, nông dân tham gia phát triển sản xuất, kinh doanh.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong tổ chức hội. Nâng cao nhận thức của cán bộ, hội viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt về vị trí, vai trò, nhiệm vụ và mục đích công tác kiểm tra, giám sát của Hội. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát; kịp thời phát hiện, chấn chỉnh thiếu sót, ngăn chặn, hạn chế tiêu cực, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và kiên quyết xử lý sai phạm.
Đổi mới công tác thi đua, khen thưởng cả về nội dung, hình thức, biện pháp tổ chức theo hướng thiết thực, hiệu quả; phát huy tinh thần tích cực, chủ động, sáng tạo của cán bộ, hội viên, nông dân trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của Hội và từng địa phương, đơn vị; kịp thời phát hiện, khen thưởng, nhân rộng điển hình tiên tiến, các mô hình mới, nhân tố mới.
Thứ hai, xây dựng người nông dân Việt Nam văn minh, phát triển toàn diện.
Nâng cao nhận thức chính trị, hiểu biết pháp luật, trách nhiệm cộng đồng, tự hào dân tộc, khát vọng vươn lên của nông dân. Khơi dậy lòng yêu nước, ý chí tự chủ, tự lực, tự cường, đổi mới sáng tạo, khát vọng vươn lên làm giàu chính đáng của hội viên, nông dân; phát huy tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, đức tính cần cù, sáng tạo, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau trong phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, trình độ, kỹ năng, tư duy hợp tác, liên kết trong sản xuất, kinh doanh cho nông dân. Các cấp hội đẩy mạnh tập huấn, phổ biến nâng cao nhận thức về kinh tế nông nghiệp theo chuỗi giá trị nông sản; về nông nghiệp sinh thái, hữu cơ, tuần hoàn, thông minh, chính xác; an toàn lao động, bảo vệ môi trường, sử dụng máy móc cơ giới, phân bón, thuốc hóa học đúng cách trong sản xuất; khoa học - kỹ thuật, kinh tế, thị trường, pháp luật, chuyển đổi số, kinh tế số; trang bị cho nông dân các kỹ năng sản xuất, marketing, bán hàng, sử dụng công nghệ thông tin, dịch vụ công; nâng cao trình độ, năng lực tham gia thị trường, hội nhập quốc tế và năng lực quản trị cho hội viên, nông dân, chủ trang trại, hợp tác xã của hội viên, nông dân.
Vận động, hướng dẫn hội viên, nông dân thực hiện nếp sống văn minh, xây dựng cộng đồng dân cư tiên tiến, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc; phối hợp với cơ quan, tổ chức thực hiện hiệu quả việc bảo tồn và phát triển ngành, nghề, làng nghề truyền thống mang đặc trưng văn hóa vùng, miền gắn với bảo vệ môi trường nông thôn; tích cực tham gia bảo tồn các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể ở địa phương.
Tích cực vận động, hỗ trợ hội viên, nông dân tham gia thực hiện các chính sách, chương trình an sinh xã hội, chương trình chăm sóc sức khỏe, y tế, giáo dục, đào tạo, văn hóa, thể thao trong cộng đồng nông thôn; tích cực tham gia bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội tự nguyện; thay đổi nhận thức của hội viên, nông dân thiết thực tham gia bảo hiểm nông nghiệp để nâng cao khả năng đối phó, chống chịu với rủi ro do thiên tai, dịch bệnh.
Thứ ba, phát huy vai trò chủ thể, trung tâm của nông dân trong phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
Đẩy mạnh phong trào “Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững”. Khuyến khích, vận động nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi, nông dân xuất sắc phát huy vai trò nòng cốt trong phát triển nông nghiệp, nông thôn, gắn kết cộng đồng nông dân, tích cực tham gia hướng dẫn, hỗ trợ hộ nông dân khác phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao thu nhập, thoát nghèo và làm giàu chính đáng. Thường xuyên tổ chức kiểm tra, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm công tác tổ chức chỉ đạo phong trào trong các cấp hội, biểu dương, khen thưởng kịp thời tập thể và cá nhân có thành tích trong phong trào thi đua.
Vận động hội viên, nông dân tích cực tham gia thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 - 2025 và đến năm 2030 của Chính phủ, các bộ, ngành và các cấp hội về xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Đẩy mạnh hướng dẫn, hỗ trợ, vận động hội viên, nông dân tham gia cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai; bảo vệ môi trường; tích cực tham gia thực hiện hiệu quả các mô hình giảm nghèo, đa dạng hóa sinh kế, nâng cao chất lượng cuộc sống, nâng cao chỉ số phát triển con người cho đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn.
Hỗ trợ, hướng dẫn hội viên, nông dân phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp mới, các mô hình liên kết, hợp tác theo chuỗi giá trị; các mô hình kinh tế hiệu quả trong nông nghiệp, nông thôn. Đẩy mạnh thí điểm xây dựng các mô hình trình diễn sản xuất nông nghiệp mới làm hình mẫu, như nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp xanh, tiết kiệm tài nguyên và giảm thải; nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn, thông minh, công nghệ cao; nông nghiệp kết hợp công nghiệp (chế biến nông sản, tái chế phế phẩm, phụ phẩm nông nghiệp), nông nghiệp kết hợp dịch vụ (du lịch trải nghiệm, bảo vệ môi trường, dịch vụ kinh doanh nông sản);…
Chú trọng hướng dẫn, hỗ trợ hội viên, nông dân tham gia phát triển các hình thức kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn; tổ hợp tác, hợp tác xã sản xuất ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số. Triển khai thí điểm mô hình tổ hợp tác, hợp tác xã do hội nông dân hướng dẫn thành lập liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số; tổng kết, đánh giá và nhân rộng mô hình.
Thứ tư, đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh.
Đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ quảng bá và tiêu thụ nông sản, hàng hóa cho nông dân, hỗ trợ kết nối thị trường, tổ chức các hội chợ triển lãm, xúc tiến thương mại, giới thiệu, quảng bá, liên kết với hệ thống siêu thị, chợ đầu mối để tiêu thụ nông sản, hàng hóa cho hội viên, nông dân; tư vấn, hỗ trợ hội viên, nông dân xây dựng thương hiệu nông sản, hàng hóa, xây dựng chỉ dẫn địa lý, thiết lập mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói, đăng ký, bảo hộ thương hiệu hàng hóa nông sản, truy xuất nguồn gốc và kiểm soát an toàn thực phẩm.
Tổ chức tốt hoạt động cung ứng thiết bị, vật tư nông nghiệp cho nông dân. Các cấp hội phối hợp với cơ quan, tổ chức cùng cấp tổ chức thực hiện hiệu quả các hoạt động tư vấn, dịch vụ, hỗ trợ hội viên, nông dân đầu tư, áp dụng các thiết bị cơ giới tiên tiến, nhà kính, nhà lưới, chuồng trại chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản hiện đại gắn với các quy trình sản xuất an toàn thực phẩm, tiên tiến, công nghệ cao.
Tăng cường hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghề cho hội viên, nông dân gắn với giải quyết việc làm, nhu cầu lao động của thị trường, doanh nghiệp, hợp tác xã, đáp ứng chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế nông thôn của từng vùng, miền. Đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức đào tạo theo hướng tăng cường thực hành gắn với mô hình thực tế, học trực tuyến qua internet, tham quan, học tập và trao đổi kinh nghiệm.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cung cấp tín dụng, hỗ trợ vốn cho nông dân. Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của quỹ hỗ trợ nông dân, đẩy mạnh phát triển nguồn vốn quỹ hỗ trợ nông dân các cấp; chủ động tham mưu với cấp ủy, đề xuất với chính quyền cùng cấp hằng năm trích ngân sách bổ sung vốn quỹ hỗ trợ nông dân phù hợp với khả năng cân đối ngân sách nhà nước; tích cực vận động tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân ủng hộ phát triển vốn quỹ; tranh thủ vốn ủy thác của Nhà nước, nguồn tài trợ, vốn vay ưu đãi của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để hỗ trợ vốn cho nông dân.
Đẩy mạnh tư vấn, phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý cho nông dân bằng nhiều hình thức, biện pháp đa dạng, phù hợp với đối tượng, vùng, miền; giúp hội viên, nông dân hiểu đúng, nắm vững pháp luật để tham gia liên doanh, liên kết, hợp tác hiệu quả gắn với bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên, nông dân; cung cấp thông tin, dịch vụ tư vấn, hỗ trợ pháp luật về bảo đảm an ninh, an toàn thực phẩm cho nông dân.
Tăng cường chuyển giao khoa học, kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ mới trong sản xuất, kinh doanh cho hội viên, nông dân; ứng dụng thành tựu khoa học, kỹ thuật tiên tiến, công nghệ mới vào sản xuất, bảo quản và chế biến nông sản, quản lý an toàn thực phẩm; phát huy vai trò cầu nối liên kết giữa nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp với nhà nông để đẩy mạnh chuyển giao khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ thân thiện với môi trường trong sản xuất nông nghiệp, chế biến thực phẩm và chuyển đổi số cho nông dân.
Thứ năm, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền vững mạnh và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Các cấp hội thực hiện tốt vai trò đại diện giai cấp nông dân tham gia xây dựng các văn kiện, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chủ động tham gia ngay từ đầu và trực tiếp đối với các nội dung liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn, chức năng, nhiệm vụ của Hội. Đổi mới việc tập hợp ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của nông dân theo hướng đi sâu, đi sát, khơi dậy ý thức làm chủ của hội viên, nông dân; tổ chức các cuộc đối thoại trực tiếp, các hình thức diễn đàn, tiếp xúc có tổ chức để lắng nghe ý kiến của hội viên, nông dân; chủ động, kịp thời nắm bắt các vấn đề thực tiễn đặt ra trong quá trình tham gia phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nông thôn mới để kiến nghị xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật; đưa các chủ đề giám sát, phản biện xã hội trở thành nội dung sinh hoạt bắt buộc và thường xuyên của chi hội, tổ hội nông dân.
Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát và phản biện xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng, quy định của Bộ Chính trị về quy chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Phát huy vai trò, nâng cao chất lượng hoạt động giám sát và phản biện xã hội của các cấp hội, nhất là các nội dung liên quan về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức và liên kết, hợp tác với các giai tầng khác. Thực hiện hiệu quả các chương trình phối hợp giữa các cấp hội nông dân với chính quyền cùng cấp, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp để hỗ trợ hội viên, nông dân, tổ chức các phong trào nông dân, góp phần củng cố khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức và đẩy mạnh hợp tác, liên kết giữa nông dân với các giai tầng khác trong phát triển sản xuất, kinh doanh.
Thứ sáu, tham gia bảo đảm quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh hợp tác quốc tế và hoạt động đối ngoại nhân dân.
Tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, hội viên, nông dân về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, giáo dục truyền thống cách mạng, nâng cao tinh thần cảnh giác trước các âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch. Tham gia thực hiện tốt chính sách “hậu phương quân đội” và các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa; giáo dục truyền thống, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” cho thế hệ trẻ.
Đẩy mạnh vận động hội viên, nông dân tích cực tham gia phối hợp tuần tra bảo vệ đường biên, mốc giới, cung cấp thông tin, tố giác tội phạm; tham gia các đội tự quản an ninh, trật tự, tổ hòa giải, các câu lạc bộ phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội, câu lạc bộ nông dân với pháp luật, góp phần giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội ở nông thôn, khu vực biên giới.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế và hoạt động đối ngoại nhân dân. Các cấp hội tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu, phối hợp, chủ động, tích cực tham gia các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động đăng cai tổ chức các sự kiện, tham gia các diễn đàn quốc tế, xúc tiến thương mại, quảng bá, kết nối, hỗ trợ xuất khẩu nông sản; đào tạo, chuyển giao khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới, tiên tiến, nâng cao trình độ cho nông dân; thu hút đa dạng các nguồn lực hỗ trợ để triển khai các chương trình, dự án về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; phối hợp tham gia giải quyết các sự việc, vướng mắc liên quan đến nông dân trong quan hệ ngoại giao quốc tế, góp phần nâng cao hiệu quả đối ngoại nhân dân trong tình hình mới theo chủ trương của Đảng.
Tiếp tục mở rộng quan hệ hữu nghị, tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo đảm an ninh, an toàn thực phẩm; tổ chức giao lưu, học tập, trao đổi kinh nghiệm, giao thương hàng hóa, nông sản giữa nông dân Việt Nam với nông dân các nước, nhất là với các nước lớn, các nước láng giềng Lào, Cam-pu-chia và Trung Quốc, góp phần mở rộng thị trường nông sản, giữ vững hòa bình, bảo vệ an ninh biên giới, lợi ích quốc gia - dân tộc.
Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền nâng cao nhận thức về chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước, các vấn đề quốc tế và cơ hội, thách thức của hội nhập quốc tế cho cán bộ, hội viên, nông dân, nhất là ở các vùng biên giới, hải đảo.
Phát huy mạnh mẽ truyền thống yêu nước, tinh thần dân tộc, sức mạnh đoàn kết, sáng tạo, cán bộ hội, hội viên, nông dân cả nước sẽ tranh thủ được thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ công tác hội và phong trào nông dân trong giai đoạn mới, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, vì một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.
-----------------
(1) Đến hết năm 2022, cả nước có 8.689 sản phẩm OCOP; sản phẩm chủ lực gồm lúa gạo (đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long), cà phê, cao su, hồ tiêu (Tây Nguyên, Đông Nam bộ), điều (Đông Nam bộ), rau quả, cá tra, tôm (đồng bằng sông Cửu Long, duyên hải miền Trung)...
(2) Năm 2020, xuất khẩu gạo đạt 3,12 tỷ USD, cà phê đạt 2,74 tỷ USD, cao su đạt 2,38 tỷ USD, điều đạt 3,2 tỷ USD, rau quả đạt 3,27 tỷ USD. Năm 2021, kim ngạch xuất khẩu nông nghiệp đạt 48,6 tỷ USD, tăng 14,9% so với năm 2020; năm 2022, đạt 53,2 tỷ USD, tăng 9,5% so với năm 2021 (tôm đạt 4,33 tỷ USD; cà phê đạt 3,94 tỷ USD; gạo đạt 3,49 tỷ USD; cao su đạt 3,31 tỷ USD; rau quả đạt 3,34 tỷ USD; hạt điều đạt 3,07 tỷ USD...).
(3) Hiện nay, cả nước có 18.945 trang trại, giá trị sản xuất bình quân của trang trại đạt 3.513 triệu đồng/năm,
thu nhập bình quân lao động thường xuyên làm việc trong trang trại đạt 4,9 triệu đồng/người/tháng; có 29.021 hợp tác xã (trong đó, có 19.384 hợp tác xã nông nghiệp, chiếm 68,8%), thu hút khoảng 6,4 triệu thành viên với 2,6 triệu lao động, doanh thu bình quân của hợp tác xã đạt gần 3,6 tỷ đồng, tăng 35%, lãi bình quân của 1 hợp tác xã là 366 triệu đồng, tăng khoảng 71%, thu nhập bình quân lao động thường xuyên trong hợp tác xã là 56 triệu đồng/người, tăng khoảng 8% so với năm 2021
(4) Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn năm 2020 đạt 41,7 triệu đồng/người/năm, gấp 1,87 lần so với năm 2015, tương ứng là tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 10,69% xuống còn 4,2%.
(5) Đến hết năm 2022, cả nước có 18 tỉnh có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 5 tỉnh (Đồng Nai, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên và Hải Dương) được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; có 255 đơn vị cấp huyện thuộc 58 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được công nhận đạt chuẩn hoặc hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và có 6.009/8.225 xã đạt chuẩn nông thôn mới (chiếm 73,05%), trong đó có 937 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 110 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu.