Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong bối cảnh mới
13:48, ngày 08-05-2024
TCCS - Việc kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở nước ta là biểu hiện sinh động của việc nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ lớn giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Trong bối cảnh mới, việc kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại càng đặt ra yêu cầu cao hơn và toàn diện hơn, là trách nhiệm của các cấp, ngành, địa phương và cả hệ thống chính trị để phát triển toàn diện mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong những năm qua
Trải qua gần 40 năm đổi mới, chúng ta đã phát huy mọi nguồn lực của quốc gia về con người, cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn vốn để đưa đất nước phát triển toàn diện, trở thành nước đang phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhận thức và giải quyết việc kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ rõ: “Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh. Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn”(1). Theo đó, các bộ, ngành, địa phương trong cả nước đã tích cực triển khai các nghị quyết, đề án, chương trình và đạt được kết quả đáng ghi nhận, đóng góp quan trọng vào thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, làm cho diện mạo của đất nước có sự thay đổi, phát triển vượt bậc, góp phần vào củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước; đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là kết tinh công sức, trí tuệ, quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, sự sáng tạo trong nhận thức, tổ chức thực hiện đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xây dựng Đảng, quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong thời kỳ đổi mới.
Bên cạnh đó, trong quá trình đổi mới toàn diện, đồng bộ, việc bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và quần chúng về kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại được đặc biệt quan tâm. Nhận thức của cán bộ, đảng viên, các cấp, các ngành, các địa phương và nhân dân đã có những chuyển biến tích cực theo hướng ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về vị trí, vai trò, mối quan hệ khăng khít không thể tách rời giữa phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Từ đó đã khắc phục được tình trạng nhận thức thiên lệch, phiến diện ở thời kỳ đầu đổi mới của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng, đó là chỉ tập trung phát triển kinh tế mà coi nhẹ lĩnh vực văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh hoặc cho rằng, quốc phòng, an ninh là công việc, nhiệm vụ của lực lượng chuyên trách… Từ chuyển biến căn bản về nhận thức, việc tổ chức thực hiện, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, các địa phương cũng ngày càng hiệu quả trong từng nhiệm vụ, từng lĩnh vực cụ thể.
Đơn cử như, công tác đối ngoại toàn diện hơn, không chỉ tập trung về lĩnh vực kinh tế, chính trị, mà còn mở rộng ở các lĩnh vực văn hóa, quốc phòng, an ninh, tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, an ninh phi truyền thống... Đối ngoại quốc phòng đã đem lại những hiệu quả thiết thực, nhất là việc Việt Nam tích cực tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, tạo “dấu ấn Việt Nam” đối với cộng đồng quốc tế. Điều đó đã tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh của nước ta, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Chúng ta đã tạo dựng được môi trường quốc tế thuận lợi và huy động được các nguồn lực từ bên ngoài để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế - xã hội”(2). Công tác đối ngoại đóng vai trò tiên phong, góp phần quan trọng tạo thế chủ động để bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Việc kết hợp giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội trong thực tiễn đổi mới đã được Đảng ta khái quát sâu sắc và đặt ra yêu cầu cần phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lớn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Những kết quả của việc kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở nước ta trong thời gian qua đã góp phần quan trọng để phấn đấu đạt được mục tiêu của thời kỳ đổi mới đất nước là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; kinh tế - xã hội phát triển, quốc phòng, an ninh giữ vững, đối ngoại được mở rộng, ngày càng khẳng định vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Công cuộc đổi mới đất nước được thực hiện toàn diện, đồng bộ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; tuy nhiên, có lúc, có địa phương chưa thấy hết được tính toàn diện và mối liên hệ các mặt giữa phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong một chỉnh thể, do vậy, có lúc quá đề cao phát triển kinh tế, sao nhãng những vấn đề về văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; phát triển kinh tế nhưng chưa thực sự quan tâm đến an sinh xã hội; triển khai các dự án, thu hút đầu tư ở một số khu kinh tế chưa chú trọng tới thế trận quốc phòng, an ninh ở từng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố. Công tác đối ngoại có nhiều chuyển biến tích cực, là một điểm sáng, nhưng có mặt vẫn chưa toàn diện. Sự kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại chưa thật sự đi vào chiều sâu, còn bộc lộ sự bất cập về cơ chế vận hành, nội dung, phương thức kết hợp ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị.
Thực tiễn cho thấy, sự kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trên những mặt cụ thể còn có những hạn chế nhất định, như việc quán triệt và tổ chức thực hiện ở một số nơi hiệu quả chưa cao; kết hợp kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở một số địa phương, đơn vị thiếu chặt chẽ, hiệu quả, còn biểu hiện chủ quan, xem nhẹ mặt này, đề cao quá mức mặt kia, chưa thấy hết vị trí, vai trò, mối liên hệ giữa các lĩnh vực. “Việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, đặc biệt tại các vùng chiến lược, biển, đảo còn chưa chặt chẽ. Công nghiệp quốc phòng, an ninh chưa đáp ứng yêu cầu trang bị cho các lực lượng vũ trang”(3). Trong đối ngoại chưa quảng bá, tuyên truyền và lan tỏa sâu rộng về chủ trương xây dựng nền quốc phòng tự vệ của Việt Nam; hoạt động đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có lúc chưa thật chủ động và hiệu quả chưa cao, còn thiếu những giải pháp đồng bộ để hạn chế những tác động tiêu cực trong quá trình đẩy mạnh hội nhập quốc tế; nhận thức và chỉ đạo thực tiễn có lúc chưa theo kịp diễn biến của tình hình; công tác nghiên cứu chiến lược, dự báo tình hình có mặt còn chưa toàn diện. Đảng ta đánh giá: “Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế… Công tác nắm tình hình, dự báo chiến lược về quốc phòng, an ninh có lúc chưa thật chủ động; tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; an ninh trên một số địa bàn, lĩnh vực chưa thật vững chắc, nhất là an ninh mạng, an ninh trong đầu tư nước ngoài… Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế có mặt, có lúc chưa theo kịp diễn biến của tình hình, chưa lường hết những tác động bất lợi. Chưa khai thác tốt và phát huy hiệu quả các quan hệ lợi ích đan xen với các đối tác quan trọng”(4).
Yêu cầu kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong bối cảnh mới
Trong bối cảnh mới, Đảng ta đánh giá và dự báo: “Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo”(5), chủ nghĩa cường quyền, nước lớn, sự mặc cả lẫn nhau “trên lưng” các nước nhỏ để đạt được mục tiêu, lợi ích về kinh tế, chính trị ngày càng bộc lộ rõ nét; chủ nghĩa dân túy với tính chất, mức độ biểu hiện khác nhau ngày càng phức tạp… Những tác động của tình hình thế giới, khu vực và tình hình trong nước đan xen cả thời cơ và thách thức, thuận lợi và khó khăn đối với cách mạng nước ta. Điều đó đặt ra yêu cầu cần phát huy sức mạnh tổng hợp về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại để tạo ra sức mạnh nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu tổng quát mà Đảng ta đã xác định: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(6).
Lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định và rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với quân sự, quốc phòng và đối ngoại. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, chúng ta đã thực hiện đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính”. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, những phong trào thi đua yêu nước ở miền Bắc 1954 - 1975 được tiến hành, như “Cờ Ba Nhất”, “Gió Đại Phong”, “Sóng Duyên Hải”, “Trống Bắc Lý”…; trên mặt trận quân sự, ngoại giao, thực hiện tư tưởng chỉ đạo “vừa đánh, vừa đàm”,… Đây chính là những biểu hiện sinh động về mối quan hệ khăng khít giữa phát triển kinh tế - xã hội với mặt trận quân sự và ngoại giao của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Từ thực tiễn lịch sử cho thấy những kinh nghiệm quý về sự kết hợp giữa kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong bối cảnh mới. Tại Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định: “Công cuộc đổi mới tiếp tục đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần phải tập trung giải quyết để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là việc nhận thức, giải quyết đúng, hiệu quả các mối quan hệ lớn”(7). Quan điểm của Đảng ta đã chỉ rõ: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”(9). Thực hiện chủ trương này, yêu cầu kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong bối cảnh mới đặt ra như sau:
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại là góp phần giải quyết mối quan hệ lớn trong đời sống xã hội. Tiếp tục bồi dưỡng, nâng cao nhận thức về nhiệm vụ kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở nước ta cho các đối tượng, chủ thể để thống nhất thực hiện. Quán triệt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược bảo vệ Tổ quốc là hai chiến lược trụ cột, trung tâm cho các chiến lược khác, nghiên cứu nắm vững các chiến lược ngành của từng lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại để thấy rõ những điểm chung, điểm tương đồng giữa các chiến lược, từ đó thấy rõ mối liên hệ, sự tác động của kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức sâu sắc phát triển đất nước trong bối cảnh mới về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại là những lĩnh vực trọng yếu; mỗi lĩnh vực có vị trí, vai trò riêng, song có khả năng hỗ trợ, xâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau để tạo ra hợp lực về sức mạnh tổng hợp, tạo đà mạnh mẽ đưa đất nước phát triển. Trong đó, phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường thực lực trong đối ngoại.
Như vậy, các chủ thể cần thống nhất nhận thức về mỗi lĩnh vực trong đời sống xã hội có vị trí, vai trò riêng nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc phát triển trong mối quan hệ giữa các mặt hoạt động tạo thành một hợp lực mạnh mẽ cho phát triển đất nước nhằm thực hiện mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời, việc kết hợp ba mặt kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại góp phần tăng cường khả năng huy động sức mạnh của từng mặt một cách hiệu quả hơn, phát huy tốt hơn mọi nguồn lực, tài lực, vật lực của nhân dân trong nước và kiều bào ta ở nước ngoài, phát huy được nguồn lực về trí tuệ và khoa học cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, nội dung, phương thức kết hợp và vận hành hiệu quả trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Tập trung nghiên cứu, đề xuất các nội dung về cơ chế, vận hành cơ chế kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong bối cảnh mới, nội dung, phương thức vận hành làm cơ sở để các cơ quan, đơn vị, địa phương vận dụng thực hiện trên thực tiễn đem lại hiệu quả thiết thực. Đối với phát triển kinh tế - xã hội, cần tiếp tục hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững. Giữa kinh tế và xã hội có mối quan hệ khăng khít với nhau, nếu phát triển kinh tế - xã hội hiệu quả, sản phẩm xã hội gia tăng, đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao thì tất yếu niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ chính trị được tăng cường, tạo tiền đề vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới.
Hiện nay, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng cùng với sự phát triển của khoa học - công nghệ, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra thời cơ và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Do đó, trong bối cảnh mới, nước ta cần có những phương thức phù hợp để tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, xây dựng và phát triển đất nước giàu về kinh tế, mạnh về quốc phòng, an ninh, linh hoạt, mềm dẻo trong chính sách đối ngoại. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh và mở rộng đối ngoại là phương thức mà trong bối cảnh mới cần được coi trọng toàn diện. Trong quy hoạch, xây dựng các đề án, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cần kết hợp chặt chẽ với quốc phòng, an ninh, tạo lập thế trận phòng thủ vững chắc trên phạm vi cả nước, đáp ứng yêu cầu trong thời bình và thời chiến (nếu xảy ra).
Trong quá trình phát triển đất nước, tất yếu phải kết hợp chặt chẽ giữa đối nội và đối ngoại, đối ngoại không chỉ là sự nối tiếp của đối nội, mà còn là một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của quốc gia, dân tộc. Phát huy bài học kinh nghiệm của dân tộc, cùng với các mặt trận chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, mặt trận ngoại giao luôn đóng vai trò trọng yếu đối với sự nghiệp cách mạng. Đối ngoại phải bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi. Với phương châm thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, “là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân kết hợp chặt chẽ với nhau. Trong đó, đối ngoại quốc phòng là một bộ phận của đối ngoại nhà nước, là phương thức trực tiếp chia sẻ, hiểu biết lẫn nhau giữa quân đội các nước trong cộng đồng quốc tế, góp phần tạo sự tin cậy lẫn nhau, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước trong bối cảnh mới.
Thứ ba, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại phải nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại là biểu hiện sinh động của các mối quan hệ giữa các mặt trong đời sống xã hội. Thực tế cho thấy, cần kết hợp chặt chẽ giữa ba trụ cột kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Bởi vì, chỉ có kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại thì mới tạo ra khả năng tốt hơn trong giảm thiểu nguy cơ, tranh thủ thời cơ để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Thực hiện hiệu quả sự kết hợp chặt chẽ trên sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội trong môi trường hòa bình và ổn định, tăng cường tin cậy trên cơ sở tạo lập môi trường chính trị, hành lang pháp lý thuận lợi để thu hút, mở rộng đầu tư nước ngoài; quốc phòng - an ninh có điều kiện để tăng cường sức mạnh xây dựng lực lượng hiện đại, có khả năng chủ động trong dự báo, phòng ngừa nguy cơ chiến tranh “từ sớm, từ xa”; đối ngoại trong điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, quốc phòng, an ninh được củng cố và tăng cường sẽ có thêm điều kiện mới, khả năng mới, thế và lực mới trong quan hệ quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”(9), điều này càng khẳng định mối quan hệ giữa sức mạnh tổng hợp của quốc gia, dân tộc với ngoại giao trên trường quốc tế trong bối cảnh mới, có mối quan hệ khăng khít không thể tách rời với lĩnh vực kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh của đất nước./.
---------------------
* Nghiên cứu Đề tài Khoa học xã hội và nhân văn cấp Quốc gia, KX.04.30/21-25
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 82
(2) Nguyễn Phú Trọng, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 185
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 170
(4), (5), (6), (7), (8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 87 - 88, 105, 112, 103, 110
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 147