Đột phá về khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số - Động lực then chốt để đưa dân tộc Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên vươn mình
20:34, ngày 20-01-2025
TCCS - Khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số từng bước trở thành các yếu tố quan trọng mang tính quyết định đối với sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước, đóng góp thiết thực, toàn diện trên mọi lĩnh vực, như y tế, nông nghiệp, công nghiệp, công nghệ thông tin, quốc phòng - an ninh... Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đặc biệt là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công tác phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số là nhiệm vụ tiên quyết, tạo nền tảng, thời cơ tốt nhất để xây dựng đất nước phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Vai trò then chốt của khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số
Đối với mỗi quốc gia, khoa học - công nghệ luôn đóng vai trò quan trọng trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Dưới góc độ chính trị, khoa học - công nghệ quyết định sức mạnh của quốc gia, cũng như vị thế của quốc gia đó trong trật tự thế giới. Chính vì vậy, các quốc gia luôn tìm cách nghiên cứu, sáng tạo và nắm giữ chìa khóa, công cụ là những thành tựu khoa học - công nghệ mới, tiên tiến nhằm khẳng định sức mạnh cũng như vị thế quan trọng trong hệ thống quan hệ quốc tế. Dưới góc độ kinh tế, khoa học - công nghệ được coi là động lực, đồng thời là nguồn lực quan trọng, là yếu tố sản xuất trực tiếp có tác động lớn tới hiệu quả sản xuất của các nền kinh tế(1). Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 của nước ta cũng khẳng định: Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chính để tăng trưởng kinh tế(2).
Kể từ khi Đảng ta được thành lập và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, công tác phát triển khoa học - công nghệ luôn được xem là nhiệm vụ hàng đầu. Đảng ta đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của việc hiện đại hóa đất nước thông qua đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ tiên tiến. Những nghị quyết, chỉ thị của Đảng ta qua các thời kỳ(3) đã minh chứng rất rõ điều này, từ việc chú trọng xây dựng nền tảng công nghiệp nặng trong giai đoạn kế hoạch hóa tập trung, cho đến định hướng đổi mới toàn diện và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trong thời kỳ đổi mới. Sự ra đời của mỗi nghị quyết đều đánh dấu một bước ngoặt quan trọng, thể hiện quyết tâm chính trị cao của Đảng ta trong việc đưa đất nước tiến lên, không ngừng vươn tới mục tiêu giàu mạnh và hùng cường(4). Đặc biệt, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định nhiệm vụ “chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”(5).
Từ nhận thức đúng đắn đó, sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện(6). Những thành tựu, kết quả to lớn đã có chính là nền tảng, điều kiện quan trọng, cùng với cơ hội của thời đại để Việt Nam hiện thực hóa tầm nhìn chiến lược, bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc - kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa(7), dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu.
Hiện nay, tình hình thế giới được đang tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, nợ công toàn cầu tăng, thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế tiềm ẩn nhiều rủi ro,…; trong khi đó, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, đặc biệt là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có sự tác động mạnh mẽ, sâu rộng và đa chiều trên phạm vi toàn cầu; công nghệ số trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, làm thay đổi phương thức quản lý nhà nước, mô hình sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng và đời sống văn hóa, xã hội. Ở trong nước, “Chúng ta đang đứng trước yêu cầu có một cuộc cách mạng với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển. Đó là cuộc cách mạng chuyển đổi số, ứng dụng khoa học - công nghệ nhằm tái cấu trúc quan hệ sản xuất phù hợp với sự tiến bộ vượt bậc của lực lượng sản xuất”(8). Chuyển đổi số hiện nay không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại - “phương thức sản xuất số”, trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng; đồng thời, quan hệ sản xuất có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số(9).
Trước bối cảnh mới, nước ta đang có chuyển động mạnh mẽ, vận hành với tinh thần mới, vận tốc mới “vừa chạy, vừa xếp hàng”, tạo ra động lực mới, hiệu năng mới cho phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân(10). Đặc biệt, cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị được thực hiện mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, ngang tầm nhiệm vụ, biên chế hợp lý, chuẩn hóa chức danh, với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả là nền tảng quan trọng để quản trị quốc gia. Để thực sự vươn mình, phát triển nhanh chóng, bền vững hơn nữa, chúng ta cần tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng tạo động lực, nền tảng mới cho phát triển - cuộc cách mạng về phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới. Cùng với đó, đổi mới tư duy, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, nâng cao vai trò khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo trong phát triển bền vững đất nước.
Kinh nghiệm của một số quốc gia trong tận dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo để phát triển toàn diện đất nước
Lịch sử phát triển thế giới đã chứng minh vai trò đặc biệt quan trọng của khoa học - công nghệ trong khát vọng vươn mình của mỗi dân tộc. Trong mỗi cuộc cách mạng công nghiệp, quốc gia nào nắm trong tay khoa học - công nghệ dẫn dắt, nắm bắt được thời cơ thì quốc gia đó vươn lên nhóm đầu trên thế giới. Hàn Quốc là một trong những quốc gia thành công nhất trong nắm bắt cơ hội, phát triển khoa học - công nghệ, sau này là đổi mới sáng tạo để vươn mình. Từ một nền kinh tế nghèo khó sau chiến tranh, Hàn Quốc bắt tay vào khôi phục kinh tế trong khi thế giới đang ở thời kỳ Cách mạng công nghiệp lần thứ hai, trở thành một trong những quốc gia đi đầu trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba(11) và nay trở thành một cường quốc công nghệ và kinh tế toàn cầu.
Chìa khoá thành công của Hàn Quốc chính là tập trung vào khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Chiến lược sáng tạo quốc gia của Hàn Quốc đã tạo ra một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mạnh mẽ, kết hợp giữa chính sách hỗ trợ từ chính phủ, hợp tác công - tư, đầu tư mạnh vào nghiên cứu và phát triển, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Tổng chi cho nghiên cứu và phát triển của Hàn Quốc thuộc nhóm cao nhất thế giới. Tính theo tỷ lệ phần trăm GDP, Hàn Quốc còn cao hơn cả Mỹ, Nhật Bản, chỉ đứng sau Israel với 4,96% GDP. Chiến lược sáng tạo quốc gia được triển khai từ năm 2013 đã đưa Hàn Quốc liên tục tăng hạng trong đánh giá chỉ số đổi mới sáng tạo (GII), từ vị trí thứ 18 năm 2013 lên vị trí thứ 6 năm 2024. Theo dữ liệu của Ngân hàng Thế giới, GDP Hàn Quốc năm 1960 chỉ gần 4 tỷ USD, nhưng năm 2024, GDP Hàn Quốc đạt 1.665 tỷ USD, tăng 416 lần.
Một quốc gia khác thành công vươn mình trên nền tảng ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo là Trung Quốc. Từ cuối năm 2012, Trung Quốc đã có sự thay đổi về trọng tâm phát triển đất nước. Cấu trúc lại nền kinh tế, chuyển trọng tâm từ tăng trưởng dựa vào xuất khẩu và đầu tư công nghiệp nặng sang phát triển dựa trên tiêu dùng nội địa, đổi mới công nghệ và dịch vụ. Năm 2015, Trung Quốc công bố Chiến lược “Made in China 2025” (MIC25) với mục tiêu: Giai đoạn 1 (2015 - 2025): Đưa Trung Quốc trở thành cường quốc chế tạo công nghệ; giai đoạn 2 (2025 - 2035): Đưa Trung Quốc gia nhập nhóm các cường quốc chế tạo công nghệ toàn cầu hạng trung; giai đoạn 3 (2035 - 2045): Đưa Trung Quốc trở thành cường quốc hàng đầu thế giới về công nghệ(12). Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới (sau Mỹ), là quốc gia đông dân nhất thế giới, đồng thời là nước đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) cao thứ hai thế giới. Phát triển của công nghệ cao, đầu tư mạnh vào các lĩnh vực, như trí tuệ nhân tạo, công nghệ xanh, năng lượng tái tạo và phát triển hạ tầng kỹ thuật số để duy trì tăng trưởng. Chuyển đổi hướng đến chất lượng thay vì tốc độ, đặt mục tiêu tăng trưởng bền vững và tập trung vào cải thiện chất lượng cuộc sống, giảm thiểu bất bình đẳng và bảo vệ môi trường thay vì chỉ chú trọng tốc độ tăng trưởng cao.
Năm 2016, Trung Quốc ban hành “Chiến lược quốc gia về phát triển dựa trên đổi mới” (National Innovation - Driven Development Strategy) với mục tiêu phát triển Trung Quốc thành một cường quốc về khoa học - công nghệ, đồng thời xây dựng nền kinh tế siêu cường dựa trên tinh thần đổi mới sáng tạo. Chiến lược này nhấn mạnh vai trò của công nghệ trong phát triển kinh tế và đặt ra các mục tiêu đưa Trung Quốc trở thành quốc gia dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo vào năm 2035. Theo đó, để hiện thực hoá các tầm nhìn về phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, Trung Quốc đã cải cách sâu rộng về tổ chức, bộ máy quản lý; đồng thời, thành lập Ủy ban Khoa học và Công nghệ Trung ương, trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Từ khi triển khai Chiến lược quốc gia về phát triển dựa trên đổi mới sáng tạo, nền kinh tế của Trung Quốc, đặc biệt là kinh tế số đã có nhiều bước phát triển vượt bậc. Giá trị gia tăng của lĩnh vực sản xuất của Trung Quốc tăng từ 16.980 tỷ nhân dân tệ (khoảng 2.370 tỷ USD) năm 2012, lên 31.400 tỷ nhân dân tệ (khoảng 4.370 tỷ USD) năm 2021, chiếm gần 30% tổng giá trị toàn cầu, tăng từ 22,5%(13). Theo ước tính tại Hội nghị Kinh tế số toàn cầu năm 2023, quy mô nền kinh tế số của Trung Quốc đã tăng lên 50,2 nghìn tỷ nhân dân tệ (khoảng 6,96 nghìn tỷ USD) năm 2022, với tốc độ tăng trưởng hai con số hằng năm là 14,2% kể từ năm 2016. Tỷ trọng của kinh tế số trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc tăng lên 41,5% năm 2022 và tốc độ tăng trưởng của kinh tế số trong thời gian này cao hơn khoảng 10% so với tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế(14).
Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu nhảy vọt trong phát triển khoa học, công nghệ. Nếu giai đoạn 2003 - 2007, Trung Quốc chỉ dẫn đầu 3/64 công nghệ quan trọng tầm chiến lược thì giai đoạn 2019 - 2023, Trung Quốc dẫn đầu trong 57/64 công nghệ quan trọng tầm chiến lược. Trung Quốc xây dựng trạm vũ trụ của riêng mình, phóng các tàu thăm dò lên mặt trăng, sao hỏa, phát triển máy bay thương mại C919, tàu lặn dưới biển sâu và siêu máy tính. Mạng lưới đường sắt tốc độ cao đã mở rộng gấp bảy lần, xây dựng gần 70 sân bay mới và khoảng một triệu ki-lô-mét đường cao tốc. Chỉ số GII của Trung Quốc liên tục tăng, năm 2012, Trung Quốc đứng thứ 34, đến năm 2024, chỉ số GII của Trung Quốc đứng thứ 11.
Để Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới
Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta luôn xác định, “cùng với giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”(15). Do đó, nhiều chủ trương, cơ chế, chính sách được ban hành nhằm thúc đẩy phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhiệm vụ phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số của nước ta chưa đạt được kết quả kỳ vọng, nhận thức về vị trí, vai trò của khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã được nâng lên nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu trở thành nền tảng, quốc sách, động lực cho phát triển kinh tế - xã hội; tốc độ phát triển của nước ta còn chậm, còn khoảng cách so với nhóm các nước phát triển; nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo chưa có đột phá, chưa làm chủ được công nghệ chiến lược, công nghệ cốt lõi; thể chế pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đáp ứng yêu cầu, nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu(16)…
Năm 2024, ngành khoa học và công nghệ tiếp tục tập trung vào công tác hoàn thiện môi trường thể chế về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, cải cách thủ tục hành chính, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ. Khoa học và công nghệ tiếp tục có đóng góp thiết thực vào sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, cải thiện an sinh xã hội và chất lượng cuộc sống nhân dân; tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia được tăng cường. Hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam tiếp tục phát triển năng động, tạo ra một thế hệ doanh nghiệp mới kinh doanh dựa trên tài sản trí tuệ và đủ năng lực tiếp cận thị trường toàn cầu.
Với vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của khoa học - công nghệ trong sự phát triển của quốc gia, để có thể vươn mình, nước ta bắt buộc phải tiến hành cuộc cách mạng, đổi mới tư duy, tháo gỡ điểm nghẽn, kiến tạo để thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Trên tinh thần đó, ngày 22-12-2024, thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Tô Lâm ký ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”.
Với 5 quan điểm, 5 nhóm mục tiêu cụ thể đến 2030 và 7 nhóm giải pháp, Nghị quyết số 57-NQ/TW thể hiện tầm nhìn, chiến lược phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia thành động lực hiện thực hoá khát vọng vươn mình của dân tộc: “Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới(17)”.
Nghị quyết số 57-NQ/TW thể hiện quyết tâm của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị và cả hệ thống chính trị. Việc thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, do đồng chí Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng làm Trưởng Ban là sự cam kết, sự quyết tâm lớn nhất, mạnh mẽ nhất. Trong đó, Nghị quyết số 57-NQ/TW xác định “Tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của doanh nhân, doanh nghiệp và nhân dân đối với phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Xác định đây là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực; được triển khai quyết liệt, kiên trì, đồng bộ, nhất quán, lâu dài với những giải pháp đột phá, mang tính cách mạng”(18). Mặt khác, thống nhất tinh thần chuyển đổi tư duy từ quản lý khoa học và công nghệ sang quản trị khoa học và công nghệ. Quan điểm này đã giải quyết rất nhiều hạn chế lâu nay trong việc phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Bên cạnh đó, Nghị quyết số 57-NQ/TW đã góp phần giải quyết những vấn đề then chốt, yêu cầu cấp bách của đội ngũ trí thức, nhà khoa học, đặc biệt là các nhà khoa học trẻ, doanh nghiệp và nhân dân.
Trong bối cảnh mới, nước ta cần vận dụng sáng tạo, cho phép thí điểm đối với vấn đề thực tiễn mới đặt ra. Bởi, thực tiễn luôn biến đổi không ngừng, luôn đặt ra vấn đề mới. Đổi mới sáng tạo, khoa học - công nghệ góp phần giải quyết vấn đề mới đó, và đôi khi, dẫn dắt vấn đề mới phát sinh. ChatGPT, Gemini,... là các ví dụ điển hình của khoa học - công nghệ dẫn đắt vấn đề mới phát sinh của thực tiễn.
Trên thực tế, quản lý nhà nước luôn mang tính kế thừa và chịu sự tác động của các yếu tố xã hội, như văn hóa, lịch sử, truyền thống, tập quán, thói quen…, theo đó, thường không theo kịp vấn đề thực tiễn mới đặt ra. Do đó, cần vận dụng sáng tạo, cho phép thí điểm để giải quyết vấn đề mới phát sinh sẽ giúp tăng cường quản trị đất nước, nhưng quan trọng hơn đó là sẽ tạo nền tảng, hành lang pháp lý để khuyến khích, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Bên cạnh đó, nước ta cần có cơ chế đầu tư kinh phí phù hợp, chấp nhận “độ trễ” trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo. Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi nhất, nhân dân và doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, nguồn lực, động lực chính. Thực tiễn trên thế giới cho thấy, sáng tạo, đột phá thường đến từ xã hội và chỉ một phần đến từ đầu tư của nhà nước. Nhà nước chỉ khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi, để nghiên cứu khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của kết quả nghiên cứu đó. Việc khơi thông nguồn lực xã hội trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, tạo thành phong trào trong toàn xã hội sẽ là yếu tố quyết định thành công cho cuộc cách mạng này.
Với những kết quả đạt được sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, với khát vọng sánh vai với các cường quốc năm châu, Việt Nam chúng ta đang trên đường băng của kỷ nguyên vươn mình. Để thực sự cất cánh, nước ta phải thực hiện thành công cuộc cách mạng phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt của toàn Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo mạnh mẽ của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm - Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số - trong thời gian tới, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia sẽ có bước tiến mạnh mẽ, phát triển nhảy vọt, trở thành động lực chính để đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam./.
-----------------------
(1) Xem: Cao Anh Dũng: “Cạnh tranh khoa học, công nghệ trên thế giưới hiện nay - Cơ hội và thách thức cho xây dựng nền công nghiệp Việt Nam hiện đại gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Cộng sản chuyên đề, số 06, năm 2022, tr. 208
(2) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 227
(3) Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 20-4-1981, của Bộ Chính trị về “Chính sách khoa học và kỹ thuật”; Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 30-3-1991, của Bộ Chính trị về “Khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới”; Nghị quyết số 02-NQ/HNTW, ngày 24-12-1996, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000”; Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 1-11-2012, của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”; Kết luận số 50-KL/TW, ngày 30-5-2019, của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về “Phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã bổ sung các nội hàm mới, như “Đổi mới sáng tạo”, “Khởi nghiệp sáng tạo”...; Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-9-2019, của Bộ Chính trị về “Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”nêu rõ vai trò quan trọng của khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo đối với phát triển kinh tế, xã hội, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế và quá trình chuyển đổi số quốc gia; Hiến pháp năm 2013 khẳng định phát triển khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; khoa học - công nghệ giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước…
(4) Xem: Lê Long Khanh: “Một chiến lược mang tính đột phá”, Báo Quân đội nhân dân điện tử, ngày 25-12-2024, https://www.qdnd.vn/chinh-tri/dua-nghi-quyet-cua-dang-vao-cuoc-song/mot-chien-luoc-mang-tinh-dot-pha-808689
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 120 - 121
(6) Quy mô nền kinh tế năm 2023 đạt 430 tỷ USD, đứng thứ 35 trên thế giới, đứng thứ 5 trong ASEAN, GDP bình quân đầu người đạt gần 4.300 USD, gấp 58 lần sau ba thập niên, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% (theo chuẩn cũ) năm 1993 xuống còn 2,93% (theo chuẩn nghèo đa chiều với tiêu chí cao hơn trước) năm 2023. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm, duy trì tăng trưởng kinh tế khá cao so với khu vực và thế giới. Năng suất lao động liên tục tăng, giai đoạn 2016 - 2020 tăng 6,05%, 2021 - 2023 tăng 8,94%. Tăng trưởng dựa nhiều hơn vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo. Mức đóng góp của các nhân tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng kinh tế ngày một lớn hơn, giai đoạn 2011 - 2015 là 34,75%, giai đoạn 2016 - 2020 là 46,04%, giai đoạn 2021 - 2023 là 37,61%. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao rõ rệt
(7) Ba trụ cột cốt lõi của chủ nghĩa xã hội Việt Nam là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
(8) Tô Lâm: “Chuyển đổi số - động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”, Tạp chí Cộng sản, số 1.045 (tháng 9 năm 2024), tr. 6
(9) Xem: Tô Lâm: “Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 1.050 (tháng 11-2024), tr. 3
(10) Đến nay, gần 99% số người lớn Việt Nam biết đọc, biết viết, số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 20 lần, phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2014... Tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước ngày càng được nâng
(11) Xem: Nguyễn Thị Hải Vân: “Chính sách khoa học - công nghệ của Hàn Quốc trong các cuộc cách mạng công nghiệp”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 7-9-2017, https://tapchicongsan.org.vn/kinh-te/-/2018/46794/chinh-sach-khoa-hoc---cong-nghe-cua-han-quoc-trong-cac-cuoc-cach-mang-cong-nghiep.aspx
(12) Li, L: “China’s Manufacturing Locus in 2025: With a Comparison of “Made in China 2025” and “Industry 4.0””, Technological Forecasting and Social Change, Elsevier, 2017, tr. 2 - 3
(13) Xem: Phiên An: “Một thập kỷ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc”, Báo điện tử VnExpress, ngày 30-10-2022, https://vnexpress.net/mot-thap-ky-tang-truong-kinh-te-cua-trung-quoc-4529618.html
(14) Xem: Trần Thị Lan Phương: “Phát triển kinh tế số ở Trung Quốc và một số hàm ý chính sách”, Tạp chí Cộng sản, ngày 3-10-2024, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/the-gioi-van-de-su-kien/-/2018/978802/phat-trien-kinh-te-so-o-trung-quoc-va-mot-so-ham-y-chinh-sach.aspx
(15) Xem: Nghị quyết số 02-NQ/HNTW, ngày 24-12-1996, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000”
(16) Xem: Hoàng Vũ: “Xung lực mới phát triển khoa học, công nghệ”, Báo Nhân Dân điện tử, ngày 3-1-2025, https://nhandan.vn/xung-luc-moi-phat-trien-khoa-hoc-cong-nghe-post854072.html
(17) Xem: Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”
(18) Xem: Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”