TCCS - Trong suốt lịch sử phát triển của các nền kinh tế, công nghiệp đã thể hiện vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa và phát triển kinh tế, là “chìa khóa” để tạo nên sự thịnh vượng của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, phát triển công nghiệp là nội dung quan trọng, gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhằm xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.

Phát triển công nghiệp trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam

Ở Việt Nam, định hướng “độc lập, tự chủ gắn với hội nhập” xuất phát từ tư tưởng xuyên suốt của Đảng ta về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đại hội XIII của Đảng xác định nội hàm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế là: “Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác”(1).

Đặc biệt, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả là hết sức cần thiết, mang tính tất yếu khách quan. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là một yếu tố then chốt để bảo đảm độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia, dân tộc; đồng thời, cũng chính là cách thức hiệu quả để nâng cao thế và lực của đất nước, phát huy sức mạnh dân tộc gắn với sức mạnh thời đại; qua đó tạo thuận lợi thúc đẩy sự chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, thực chất, hiệu quả và thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế.

Dây chuyền sản xuất sản phẩm thiết bị đầu cuối của VNPT Technology - đơn vị chủ lực của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất viễn thông, công nghệ thông tin, truyền thông và công nghiệp nội dung số_Ảnh: TTXVN

Một trong những nhân tố bảo đảm cho một nền kinh tế độc lập, tự chủ là phải xây dựng được nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, tự lực, tự cường bởi đây là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân: Sản xuất ra một khối lượng của cải vật chất rất lớn; cung cấp hầu hết các tư liệu sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho tất cả các ngành kinh tế; tạo ra sản phẩm tiêu dùng nhằm nâng cao đời sống xã hội. Công nghiệp phát triển không những tạo ra giá trị gia tăng cao mà còn tác động lan tỏa tổng thể đến chất lượng tăng trưởng kinh tế, góp phần quan trọng trong việc tích lũy cơ sở vật chất cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

Trong các phân ngành công nghiệp, công nghiệp chế biến, chế tạo đóng vai trò chủ đạo, tạo ra giá trị gia tăng lớn nhất cho khu vực công nghiệp và tác động lan tỏa tổng thể đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Quy mô, tốc độ phát triển của ngành chế biến, chế tạo ảnh hưởng tới quy mô, chiều hướng và tốc độ phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Hoạt động công nghiệp chế biến, đặc biệt là công nghiệp chế biến sâu các sản phẩm thô từ nguyên liệu trong nước cho phép ngành chế biến, chế tạo có thể thực hiện liên kết chuỗi, gồm nhiều hoạt động công nghiệp chế biến trong nội bộ nền kinh tế, nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm nội địa, từ đó tăng tính kết nối liên ngành, liên vùng trong nước và mở rộng hơn là tăng cường liên quốc gia, liên khu vực và quốc tế. Điều này làm cho ngành chế biến, chế tạo tạo ra tác động tổng hợp với sức mạnh lan tỏa, qua đó tạo nền tảng cho một nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Phát triển công nghiệp là nội dung quan trọng và gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiến tới một nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, qua các thời kỳ, Đảng ta luôn quan tâm đề ra các chủ trương, chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 xác định rõ đường lối phát triển công nghiệp sau 5 năm thực hiện công cuộc đổi mới là “Đẩy mạnh công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, mở rộng kinh tế đối ngoại, phát triển kinh tế dịch vụ, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng. Xây dựng nền công nghiệp nặng với bước đi thích hợp, trước hết là các ngành trực tiếp phục vụ nông nghiệp”(2). Đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), đường lối phát triển công nghiệp đã được hoàn thiện và làm rõ hơn: “Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới”(3).

Ngày 22-3-2018, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW, “Về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Đây được xem là văn bản thể hiện chủ trương, đường lối nhất quán và đầy đủ đầu tiên của Đảng để đưa ra những định hướng, mục tiêu cụ thể nhằm phát triển công nghiệp cho đất nước.

Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nêu rõ về đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, cụ thể: Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao(4).

Thực trạng phát triển công nghiệp

Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ giai đoạn 1 sang giai đoạn 2 trong quá trình phát triển công nghiệp, trong đó, mức độ hấp thụ công nghệ và trình độ quản lý sản xuất vẫn đang ở mức rất hạn chế. Quá trình chuyển đổi này hiện diễn ra tương đối chậm chạp, mối liên kết giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có trình độ công nghệ và các doanh nghiệp trong nước lỏng lẻo, chưa tạo ra được sự lan tỏa và tận dụng tối đa hiệu quả của FDI đầu tư tại Việt Nam.

Trước thực trạng đó, Việt Nam theo đuổi mục tiêu công nghiệp hóa, tập trung vào việc xây dựng và nâng cao năng lực, năng suất cho các doanh nghiệp công nghiệp trong nước, hình thành và phát triển các doanh nghiệp công nghiệp mạnh, các chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị trong nước (bao gồm cả hoạt động sản xuất và dịch vụ trên toàn chuỗi), có đủ năng lực cạnh tranh toàn cầu; tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi để các doanh nghiệp công nghiệp trong nước có thể lớn mạnh, tạo ra giá trị gia tăng trong nước lớn hơn, kết nối được với khu vực FDI và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Trong giai đoạn 10 năm (2011 - 2020), cơ cấu ngành công nghiệp đã dịch chuyển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước khẳng định vai trò quan trọng của ngành công nghiệp, là động lực cho tăng trưởng kinh tế. Tỷ trọng của công nghiệp trong GDP đã tăng từ 26,6% năm 2011 lên 27,5% năm 2020. Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp ngày càng tích cực theo hướng giảm tỷ trọng các ngành khai thác tài nguyên, từ 9,9% năm 2011 xuống 5,6% năm 2020 và tăng tỷ trọng của các ngành chế biến, chế tạo, từ 13,4% lên 16,7% trong cùng thời kỳ, góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong những trung tâm công nghiệp của khu vực và thế giới. Công nghiệp chế biến, chế tạo đã trở thành động lực tăng trưởng chủ yếu của ngành công nghiệp và nền kinh tế, với tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các ngành kinh tế, bình quân cả giai đoạn đạt 10,4%/năm. Cơ cấu nội ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cũng có sự chuyển biến tích cực, với tỷ trọng ngày càng tăng của các ngành công nghiệp nền tảng và công nghiệp hỗ trợ, từng bước đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu, phụ tùng, linh kiện trong nước, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa,... Ngành công nghiệp cũng góp phần chuyển dịch cơ cấu đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài, tỷ trọng vốn FDI chảy vào các ngành công nghiệp tăng đều qua các năm, từ 54% năm 2011 lên 68,6% năm 2020.

Năm 2021, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp tăng 4,82% so với năm 2020, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,37%, đóng góp 1,81 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế. Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp năm 2022 tăng 7,69% so với năm 2021. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,10%, đóng góp 2,09 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế. Tuy nhiên, quý I-2023, sản xuất một số ngành công nghiệp chủ lực suy giảm khiến cho giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp giảm 0,82% so với cùng kỳ, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,37%; nhiều địa phương vốn là trung tâm công nghiệp của cả nước tăng trưởng công nghiệp âm ở mức sâu…

Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, việc triển khai cơ cấu lại, đổi mới mô hình tăng trưởng của ngành công nghiệp vẫn còn một số hạn chế, mô hình tăng trưởng có thay đổi nhưng còn chậm, chủ yếu phát triển về chiều rộng mà chưa phát triển về chiều sâu.

Năng lực tự chủ của ngành công nghiệp còn chưa cao, đặc biệt là các ngành công nghiệp nền tảng và công nghiệp hỗ trợ. Cơ cấu nội ngành chưa thực sự bền vững do Việt Nam vẫn chưa chủ động được nguồn nguyên liệu trong nước, phải nhập khẩu nguyên, vật liệu đầu vào, dẫn đến sự phụ thuộc chủ yếu vào nguồn cung từ bên ngoài. Tỷ lệ nội địa hóa của sản phẩm thấp(5).

Chất lượng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các ngành công nghiệp còn thấp. Các doanh nghiệp tại Việt Nam về cơ bản chỉ thực hiện công đoạn gia công, lắp ráp trong chuỗi giá trị toàn cầu với tỷ suất lợi nhuận rất thấp (khoảng 5 - 10%), trong khi các phân khúc có giá trị gia tăng cao đều ở nước ngoài như các khâu nghiên cứu phát triển, thiết kế sản phẩm, phân phối, marketing…

Ngoài ra, cơ cấu công nghiệp theo thành phần kinh tế cho thấy ngành công nghiệp Việt Nam nói chung và các ngành định hướng xuất khẩu nói riêng đang phụ thuộc nhiều vào khu vực FDI, đây là một thách thức không nhỏ đối với nước ta, bởi về dài hạn, các doanh nghiệp FDI sẽ có khả năng rời sang quốc gia khác có lợi thế hơn về lao động, quỹ đất và các ưu đãi đầu tư. Các doanh nghiệp lớn trong các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chủ yếu là FDI, trong khi mức độ liên kết giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước còn thiếu chặt chẽ, nhất là ở một số ngành quan trọng như điện tử, công nghệ thông tin... Điều này đã hạn chế khả năng cải thiện năng suất cho doanh nghiệp trong nước thông qua chuyển giao công nghệ và nâng cao trình độ quản lý.

Cơ cấu phân bố không gian các ngành công nghiệp chưa khai thác tốt lợi thế cạnh tranh của các vùng, chưa hình thành được các cụm liên kết ngành từ các khu kinh tế, khu công nghiệp để liên kết phát triển chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị trong nước. Công nghiệp địa phương phát triển tự phát, thiếu sự hợp tác, tận dụng thế mạnh, lợi thế của từng địa phương và thiếu thể chế quản lý quy hoạch vùng.

Những hạn chế kể trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan gây ra, trong đó, có thể chỉ ra một số nguyên nhân cụ thể sau:

Một là, chính sách phát triển công nghiệp của Việt Nam còn dàn trải, việc bố trí nguồn lực cho phát triển công nghiệp chưa đủ mạnh, chưa tạo điều kiện thuận lợi tối đa để công nghiệp phát triển, trong đó, quan trọng nhất là nhận thức về đối tượng cần hướng đến của các chính sách phát triển công nghiệp là khu vực kinh tế tư nhân chưa được chú trọng.

Hai là, việc thực hiện cơ cấu lại và đổi mới mô hình tăng trưởng ngành công nghiệp chưa được quán triệt xuyên suốt và nhất quán trong chỉ đạo, điều hành ở tất cả các cấp, đặc biệt là ở các địa phương; hệ thống thể chế, chính sách, pháp luật thực thi cơ cấu lại ngành còn chưa đủ mạnh, còn chậm đổi mới để đáp ứng với sự thay đổi của bối cảnh mới.

Ba là, thiếu thể chế tạo liên kết kinh tế giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng để phát huy cao nhất tiềm năng, lợi thế trong phát triển các ngành, đặc biệt là công nghiệp để hình thành các chuỗi cung ứng trong nước, các cụm liên kết ngành có quy mô lớn, hiệu quả cao, dẫn đến các địa phương phát triển các ngành công nghiệp không theo hướng dựa trên các lợi thế cạnh tranh giữa các địa phương.

Bốn là, mô hình tăng trưởng chậm thích ứng với các đổi mới, các cú sốc từ bên ngoài, cân bằng giữa sản xuất với các vấn đề về phát triển bền vững và xử lý các vấn đề mang tính liên ngành, liên vùng. Do độ mở kinh tế lớn (trên 200%), ngành công nghiệp phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, thiếu chủ động và dễ tổn thương trước các biến động của thị trường thế giới (điển hình là đại dịch COVID-19 vừa qua).

Năm là, đầu tư trong công nghiệp chưa đi vào chiều sâu, việc thu hút và tận dụng nguồn vốn FDI còn hạn chế, đặc biệt là việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ; nghiên cứu khoa học trong các doanh nghiệp công nghiệp còn yếu; sản xuất các sản phẩm phụ trợ còn thiếu nhiều chủng loại. Phần lớn doanh nghiệp công nghiệp là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ, chưa chủ động xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn, chủng loại sản phẩm chưa phong phú, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, năng lực cạnh tranh nhìn chung thấp.

Sản xuất lốp xe ô tô bằng công nghệ hiện đại tại Công ty TNHH Sailun Việt Nam ở xã Phước Đông, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh_Ảnh: TTXVN

Giải pháp phát triển công nghiệp góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII nêu rõ: “Xây dựng và triển khai chương trình quốc gia về nâng cao năng lực độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của nền sản xuất Việt Nam đến năm 2045 (Make in Vietnam 2045) theo hướng chú trọng nâng cao tự chủ về nguyên liệu, công nghệ, sản xuất và thị trường; tăng cường năng lực sáng tạo và thiết kế, phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều công nghệ, có giá trị gia tăng cao và các ngành công nghiệp phát thải các-bon thấp; khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào đổi mới, hấp thụ và làm chủ công nghệ, nhất là công nghệ lõi, công nghệ nguồn”(6). Trên tinh thần đó, để đẩy mạnh phát triển công nghiệp, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, cần tập trung vào một số giải pháp trọng tâm sau:

Một là, tạo môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi cho việc phát triển các ngành công nghiệp. Sau hơn 36 năm đổi mới, quy mô nền kinh tế được mở rộng. Tuy nhiên trong nhiều giai đoạn, môi trường kinh tế vĩ mô còn chưa ổn định, chưa tạo điều kiện và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất. Một số lĩnh vực kinh doanh dịch vụ đem lại tỷ suất lợi nhuận cao đã thu hút phần lớn nguồn lực của xã hội. Bên cạnh đó, việc thu hồi vốn chậm, tỷ suất lợi nhuận thấp do lãi suất tín dụng cao chưa khuyến khích và đánh thức được sự quan tâm của xã hội đầu tư vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Việc đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp khó khăn hơn lĩnh vực thương mại, dịch vụ, trong khi đó, tỷ suất lợi nhuận kém hấp dẫn, nhiều rủi ro. Điều đó dẫn đến số lượng các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp còn kém phát triển và ít ỏi như hiện nay. Có ổn định kinh tế vĩ mô, nhất là kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền mới tạo điều kiện thuận lợi để duy trì trật tự và thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nói chung và phát triển các ngành công nghiệp nói riêng.

Hai là, có cơ chế huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho phát triển công nghiệp. Nguồn đầu tư của xã hội cho phát triển công nghiệp phụ thuộc ngày càng nhiều vào nước ngoài. Vốn đầu tư vào khu vực công nghiệp đa số tập trung vào các ngành có chuỗi sản xuất ngắn, thời gian hoàn vốn ngắn như công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và chế biến thực phẩm, số dự án đầu tư vào công nghệ cao chưa nhiều. Trong điều kiện nguồn lực hạn hẹp, việc lựa chọn một số ngành công nghiệp để ưu tiên phát triển phải đáp ứng các nguyên tắc: Dựa trên kết quả phân tích khách quan lợi thế của đất nước; là ngành có khả năng tham gia sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; có ý nghĩa nền tảng, có tác động lan tỏa cao đến các ngành kinh tế khác; sử dụng các công nghệ sạch, thân thiện môi trường; có khả năng tạo ra giá trị gia tăng cao; một số ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động mà Việt Nam vẫn đang có lợi thế. Việc xác định các ngành công nghiệp ưu tiên phải có tính động và linh hoạt cần thiết, định kỳ phải đánh giá hiệu quả hoạt động theo các tiêu chí để có điều chỉnh phù hợp.

Bên cạnh đó, chú trọng nguồn lực phát triển các ngành công nghiệp nền tảng nhằm xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, hiện đại, bảo đảm năng lực tự chủ về tư liệu sản xuất và nâng cao vị thế của một trong những trung tâm sản xuất công nghiệp toàn cầu. Hình thành năng lực sản xuất mới gắn liền với khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tập trung phát triển các sản phẩm công nghiệp quốc gia và tạo dựng thương hiệu Việt Nam dựa vào công nghệ mới, công nghệ cao và các ngành kinh tế sáng tạo.

Ba là, phát triển hệ thống doanh nghiệp công nghiệp, hình thành được các tập đoàn công nghiệp có quytầm cỡ khu vực và quốc tế. Trừ các doanh nghiệp nhà nước, phần lớn các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam đều là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trình độ sản xuất hạn chế, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ. Bên cạnh đó, hiện chúng ta vẫn chưa hình thành được các tập đoàn công nghiệp có quy mô tầm cỡ khu vực và quốc tế trong lĩnh vực công nghiệp để tạo hiệu ứng lan tỏa cho công nghiệp Việt Nam.

Trong thời gian tới, cần tiếp tục đẩy nhanh việc sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực công nghiệp thông qua việc triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 3-6-2017, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, “Về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”. Nhà nước chỉ nắm giữ cổ phần chi phối đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực công nghiệp then chốt, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế hoặc gắn với quốc phòng, an ninh. Có chính sách khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy hình thành các tập đoàn kinh tế lớn, đa sở hữu trong lĩnh vực công nghiệp, có khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới.

Phát triển các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân trong nước thực sự trở thành một động lực quan trọng cho phát triển công nghiệp đất nước trên cơ sở triển khai thực hiện quyết liệt Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 3-6-2017, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, “Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Chú trọng xây dựng và triển khai các chính sách nâng cao năng lực công nghệ, quản trị cho các doanh nghiệp công nghiệp trong nước. Có chính sách khuyến khích và hỗ trợ hình thành các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn trong lĩnh vực công nghiệp. Ưu tiên phát triển các doanh nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, các công đoạn có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu, công nghiệp xanh, công nghiệp các-bon thấp,...

Bốn là, tăng cường mức độ liên kết và hợp tác kinh doanh giữa các doanh nghiệp trong cùng nội ngành và giữa các ngành. Hiện, chưa thực sự tạo được mối liên kết phát triển giữa các ngành theo hướng hợp tác chuyên môn hóa phù hợp với cơ chế thị trường, giữa khu vực doanh nghiệp trong nước và khu vực FDI. Các chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực doanh nghiệp tư nhân, thúc đẩy liên kết chưa mang lại nhiều kết quả. Vì vậy, cần hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách, pháp luật thực thi cơ cấu lại ngành, thúc đẩy phát triển công nghiệp từ Trung ương đến địa phương, tạo liên kết kinh tế giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng để phát huy cao nhất tiềm năng, lợi thế trong phát triển các ngành, hình thành các cụm liên kết ngành có quy mô lớn, hiệu quả cao.

Song song với đó, phát triển hệ thống cụm liên kết ngành, chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị trong nước theo lợi thế của các địa phương tại một số vùng, địa bàn trọng điểm, dưới sự dẫn dắt của một số tập đoàn công nghiệp đa quốc gia của Việt Nam có thương hiệu, có năng lực cạnh tranh quốc tế và tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Năm là, coi trọng phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng được yêu cầu của các ngành công nghiệp. Doanh nghiệp công nghiệp gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao động, đặc biệt là lao động tay nghề cao. Phần lớn lao động trong doanh nghiệp là lao động phổ thông, được đào tạo dưới hình thức vừa học, vừa làm. Số lượng công nhân có tay nghề cao chiếm tỷ trọng nhỏ và chủ yếu làm bằng kinh nghiệm, phần còn lại có tay nghề thấp, khả năng tiếp nhận các kiến thức mới còn hạn chế. Trình độ đội ngũ quản lý, lãnh đạo doanh nghiệp nhiều mặt còn yếu.

Để tháo gỡ khó khăn này, cần nghiên cứu, thực hiện cơ chế, chính sách phát triển nhân lực công nghiệp, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo nhằm tạo ra nguồn nhân lực công nghiệp có khả năng làm chủ và tiếp nhận các công nghệ sản xuất mới. Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học thuộc lĩnh vực công nghệ, kỹ thuật. Tập trung phát triển một số cơ sở đào tạo bậc đại học và dạy nghề về công nghệ, kỹ thuật đạt trình độ quốc tế. Đẩy mạnh xã hội hóa đào tạo kỹ thuật, công nghệ. Khuyến khích khu vực tư nhân và các doanh nghiệp tham gia đào tạo nhân lực công nghiệp chất lượng cao, gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu, đào tạo với hoạt động sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động công nghiệp./.

-----------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 135 - 136
(2) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 12
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 75
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 112
(5) Theo báo cáo của Bộ Công thương năm 2020, ngành sản xuất, lắp ráp ô-tô, tỷ lệ nội địa hoá đối với xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi còn thấp, mới đạt bình quân 7 - 10%, chưa đạt mục tiêu Chiến lược phát triển ngành đề ra (30 - 40% đến 2020). Một số dòng xe đã đáp ứng mục tiêu đề ra như các dòng xe tải đến 7 tấn đạt tỷ lệ nội địa hóa trung bình đạt 55%; xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng đạt tỷ lệ nội địa hóa đến 40%. Tỷ lệ nội địa hóa các ngành điện tử tin học, viễn thông chỉ đạt 15%, điện tử chuyên dụng và các ngành công nghiệp công nghệ cao chỉ đạt 5%. Tỷ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp dệt may mới đạt khoảng 40 - 45%. Ngành vải may của Việt Nam mới chỉ đáp ứng được khoảng 25% nhu cầu thị trường trong nước. Ngành da, giày, nguyên phụ liệu chiếm tới 68 - 75% trong cơ cấu giá thành sản phẩm giày dép, nhưng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm này của doanh nghiệp Việt Nam chỉ đạt 40 - 45%
(6) Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 132