Hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam: Những điểm nổi bật trong năm 2017 và định hướng cho năm 2018

Trần Tuấn Anh TS, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Công Thương
20:59, ngày 08-03-2018

TCCS - Ngay từ đầu năm 2017, các bộ, ngành, địa phương đã khẩn trương, nghiêm túc tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện một cách sâu sát, quyết liệt, năng động, sáng tạo, hiệu quả các nghị quyết của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2017, tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017, định hướng đến năm 2020; trên tinh thần của một Chính phủ liêm chính, kiến tạo và hành động. Kết quả là, trong năm 2017 Chính phủ đã hoàn thành 13/13 chỉ tiêu kinh tế - xã hội do Quốc hội giao. Trong bức tranh tăng trưởng chung của nền kinh tế, hoạt động xuất, nhập khẩu là điểm sáng phản ánh năng lực sản xuất trong nước tăng trưởng cao, công tác hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng thị trường xuất khẩu đạt kết quả tích cực.


Những kết quả xuất, nhập khẩu năm 2017

Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt khoảng 425 tỷ USD; trong đó, xuất khẩu ước đạt 213,8 tỷ USD, tăng 21,1% so với năm 2016, là mức tăng trưởng cao nhất kể từ năm 2011 đến nay; nhập khẩu ước đạt 211,1 tỷ USD, tăng 20,8%; đặc biệt xuất siêu ở mức 2,67 tỷ USD là mức thặng dư thương mại cao nhất từ trước đến nay. Những kết quả này đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP, cải thiện cán cân thanh toán, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định tỷ giá, kiểm soát lạm phát, tạo hiệu ứng “lan tỏa” thúc đẩy sản xuất, tạo việc làm và thu nhập cho hàng triệu lao động. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao, phản ánh công tác mở cửa, phát triển thị trường cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục là “cú huých” cho năng lực sản xuất trong nước phát triển.

Xét về quy mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu: Năm 2017, có thêm 4 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD (hóa chất, thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh, đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận và xăng dầu các loại), đưa số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD lên 29 mặt hàng; số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ USD là 20, trong đó có 8 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 6 tỷ USD, như điện thoại các loại và linh kiện: 45,1 tỷ USD; hàng dệt may: 25,9 tỷ USD; giày dép các loại: 14,6 tỷ USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng: 12,8 tỷ USD; thủy sản: 8,35 tỷ USD; gỗ và sản phẩm gỗ: 7,6 tỷ USD; phương tiện vận tải và phụ tùng: 6,97 tỷ USD.

Về thị trường xuất khẩu: Việt Nam tiếp tục duy trì và mở rộng quan hệ xuất khẩu với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có 29 thị trường xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD, 4 thị trường xuất khẩu đạt kim ngạch trên 10 tỷ USD. Thị phần xuất khẩu tại các thị trường trọng điểm được củng cố và có tăng trưởng. Nhiều thị trường đạt mức tăng trưởng xuất khẩu hai con số, như Trung Quốc: 60,6%, Hàn Quốc: 31,1%, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN): 24,3%, Nhật Bản: 14,2%, Liên minh châu Âu (EU): 12,8%,... Kết quả này thể hiện chủ trương đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tận dụng tối đa các ưu đãi do các hiệp định thương mại tự do (FTA) mang lại và các giải pháp gắn sản xuất trong nước với tín hiệu thị trường, nâng cao chất lượng hàng hóa và khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.

Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu: Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu chuyển dịch tích cực theo định hướng của Chiến lược phát triển xuất, nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 - 2020, định hướng đến năm 2030. Kết quả này thể hiện sự cải thiện trong chất lượng tăng trưởng. Nhóm hàng công nghiệp chế biến tiếp tục thể hiện vai trò quan trọng trong tăng trưởng xuất khẩu, chiếm hơn 81% tổng kim ngạch xuất khẩu, với trị giá xuất khẩu ước đạt 173,5 tỷ USD, tăng 22,4%. Đây là yếu tố đóng góp quan trọng cho tăng trưởng xuất khẩu của năm 2017. Nhóm hàng nông, thủy sản có sự tăng trưởng tốt (ước đạt 25,9 tỷ USD, tăng 16,9%), trong đó nhiều mặt hàng có kim ngạch cao và tăng trưởng cao, như thủy sản ước đạt 8,35 tỷ USD, tăng 18,5%; rau quả: 3,5 tỷ USD, tăng 43,1%; hạt điều: 3,52 tỷ USD, tăng 23,9%,... Nhóm nhiên liệu khoáng sản ước đạt 4,42 tỷ USD, tăng 27% (chủ yếu do giá xuất khẩu tăng) và chỉ chiếm khoảng 2,1% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Về cán cân thương mại: Đây là năm thứ hai liên tiếp Việt Nam có xuất siêu trong thương mại hàng hóa, với mức thặng dư trong năm 2017 dự kiến khoảng 2,67 tỷ USD, cao hơn mức thặng dư 1,78 tỷ USD của năm 2016.

Nguyên nhân của sự thành công và bài học kinh nghiệm:

Một là, đạt được những kết quả nổi bật nêu trên, trước hết là nhờ sự đoàn kết, thống nhất, nỗ lực phấn đấu, chung sức, chung lòng của các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, chính quyền các địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và toàn thể nhân dân trong công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ; khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước coi xuất khẩu là một trong những động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế.

Hai là, năm 2017 là năm mà Chính phủ, chính quyền các địa phương đã thể hiện quyết tâm cao trong cải cách thủ tục hành chính, kiến tạo môi trường kinh doanh, đầu tư thuận lợi, thông thoáng, minh bạch cho người dân và doanh nghiệp. Các bộ, ban, ngành Trung ương và địa phương đã triển khai đồng bộ các giải pháp, nhiệm vụ theo đúng mục tiêu, yêu cầu của Chính phủ đề ra tại Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP, ngày 06-02-2017, của Chính phủ, Về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 35/NQ-CP, ngày 16-5-2016, của Chính phủ, Về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. So với năm 2016, xếp hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam tăng 14 bậc (từ 82 lên vị trí 68/190 nền kinh tế); chỉ số năng lực cạnh tranh tăng 5 bậc (từ 60 lên 55/137 nền kinh tế). Tinh thần đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội, số doanh nghiệp thành lập mới năm 2017 đạt mức kỷ lục, gần 127.000 doanh nghiệp, tăng 15,2% so với năm 2016. Nhờ đó, nguồn hàng cho xuất khẩu tăng trưởng mạnh mẽ, giúp xuất khẩu tăng trưởng ở cả 3 khu vực là công nghiệp, nông nghiệp và nhiên liệu, khoáng sản.

Triển khai Phương án tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Công Thương năm 2017, đến nay Bộ đã thực hiện rà soát, đơn giản hóa đối với 183 thủ tục hành chính, gồm bãi bỏ 49 thủ tục hành chính và đơn giản hóa 134 thủ tục hành chính. Bộ Công Thương cũng đã ban hành phương án cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện đầu tư, kinh doanh thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ giai đoạn 2017 - 2018. Theo đó, 675 điều kiện đầu tư, kinh doanh được cắt giảm, chiếm tới 55,5% tổng các điều kiện đầu tư kinh doanh hiện trong 16 ngành, nghề thuộc Phụ lục IV Luật Đầu tư.

Ba là, chính sách thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài đã góp phần tạo ra năng lực sản xuất mới phục vụ nhu cầu trong nước và phục vụ cho xuất khẩu. Vốn thực hiện của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong năm 2017 ước đạt 17,5 tỷ USD, tăng 10,8% so với năm 2016. Vai trò của doanh nghiệp FDI đối với lĩnh vực xuất khẩu ngày càng quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp chế biến xuất khẩu, trong đó nhiều mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao, như điện thoại các loại và linh kiện; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng. Tăng trưởng xuất khẩu của khối FDI trong thời gian qua là thành công bước đầu của chính sách thu hút nguồn vốn FDI của Đảng và Nhà nước.

Bốn là, việc tận dụng các lợi thế do các FTA mang lại hiệu quả hơn. Tính đến nay, nước ta đã ký kết và đang thực thi 10 FTA đa phương và song phương. Đây là sân chơi lớn cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam và là tiền đề quan trọng để Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị, mạng lưới sản xuất toàn cầu; nâng cao giá trị xuất khẩu. Cơ cấu kinh tế từ đó cũng được chuyển đổi theo hướng tích cực.

Các biện pháp, giải pháp cần thiết đang được Bộ Công Thương triển khai một cách đồng bộ để thực thi các hiệp định và hỗ trợ doanh nghiệp khai thác lợi ích của các FTA, như nội luật hóa các cam kết; tuyên truyền về tiến trình hội nhập quốc tế và giải thích các cam kết; nghiên cứu, đánh giá tác động của các FTA; cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa công tác cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O), áp dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ để tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp xuất khẩu,...

Số liệu thống kê cho thấy, thời gian gần đây các doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng tốt hơn các cơ hội do các FTA đem lại, xuất khẩu vào các nước có FTA ngày càng tăng. Năm 2017, xuất khẩu sang Nhật Bản ước đạt 16,8 tỷ USD, tăng 14,2% so với năm 2016; xuất khẩu sang Trung Quốc: 35,3 tỷ USD, tăng 60%; xuất khẩu sang thị trường ASEAN: 21,7 tỷ USD, tăng 24,3%.

Năm là, Chính phủ, Bộ Công Thương và các bộ, ngành liên quan đã chủ động bám sát diễn biến, bối cảnh thị trường trong và ngoài nước để kịp thời chỉ đạo, điều hành linh hoạt, từ chính sách đến công tác tháo gỡ khó khăn cho từng ngành, từng lĩnh vực và doanh nghiệp.

Trước xu hướng bảo hộ mậu dịch của các đối tác quốc tế có chiều hướng gia tăng, gây ra nhiều rào cản đối với doanh nghiệp xuất khẩu, qua công tác đối ngoại cấp cao, Chính phủ đã từng bước tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ giải quyết các tranh chấp thương mại tại thị trường quốc tế để thúc đẩy xuất, nhập khẩu của các ngành hàng, doanh nghiệp trong nước. Nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp thuộc các ngành hàng xuất khẩu có thế mạnh của Việt Nam, như gỗ, da giày, dệt may, công nghiệp chế biến, chế tạo,... được triển khai đã không chỉ giúp tháo gỡ khó khăn mà còn tạo được niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp.

Bộ Công Thương cảnh báo kịp thời trên hệ thống cảnh báo sớm thông tin về các biện pháp phòng vệ thương mại và các rào cản phi thuế quan của các nước đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, giúp các doanh nghiệp có thể dự báo trước nguy cơ xảy ra các vụ kiện chống bán phá giá, chủ động ứng phó với các vụ kiện, giảm thiểu thiệt hại do các vụ kiện về phòng vệ thương mại gây ra.

Một số hạn chế cần khắc phục:

Thứ nhất, tăng trưởng xuất khẩu dễ bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài, như gia tăng các rào cản thương mại, hàng rào kỹ thuật của các nước nhập khẩu. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tuy đã chuyển dịch mạnh sang hàng chế biến, chế tạo, nhưng vẫn còn phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp có vốn FDI. Tỷ lệ nhập khẩu nguyên, phụ liệu lớn khiến hàng hóa xuất khẩu phụ thuộc vào thị trường cung cấp nước ngoài.

Thứ hai, mặc dù chất lượng hàng hóa nông, thủy sản đã được chú trọng cải thiện nhưng chưa đồng đều; các mặt hàng nông, thủy sản xuất khẩu còn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận những thị trường có yêu cầu cao về chất lượng và an toàn thực phẩm. Năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu chậm được cải thiện, phần lớn các mặt hàng xuất khẩu đều chưa xây dựng được thương hiệu riêng.

Thứ ba, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung còn thấp, chịu sức cạnh tranh lớn từ doanh nghiệp nước ngoài, dẫn đến một số ngành trong nước bị ảnh hưởng do tác động của việc mở cửa thị trường, nhập khẩu tăng mạnh.

Thứ tư, chất lượng nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng chậm được cải thiện. Năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, doanh nhân còn hạn chế so với yêu cầu hội nhập quốc tế.

Một số định hướng cơ bản cho xuất khẩu, nhập khẩu năm 2018

Hoạt động xuất, nhập khẩu năm 2017 đã đạt được những kết quả tích cực, đáng biểu dương, tuy nhiên chúng ta không chủ quan, thỏa mãn vì năm 2018, tình hình xuất, nhập khẩu của Việt Nam dự báo sẽ tiếp tục gặp khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường; kinh tế thế giới còn tiềm ẩn nhiều rủi ro; chính sách kinh tế và thương mại của các nền kinh tế lớn, như Hoa Kỳ, EU,... có thể thay đổi nhanh và có tác động đa chiều; căng thẳng địa - chính trị ở nhiều nơi có thể ảnh hưởng đến tài chính thế giới, giá cả các mặt hàng nguyên, nhiên, vật liệu cũng như giảm nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng; nguồn cung toàn cầu tiếp tục tăng, ngày càng nhiều nước tham gia cung ứng nông sản, trong khi nhiều nước đẩy mạnh các chương trình, kế hoạch thúc đẩy sản xuất, hướng tới giảm dần phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu; xuất hiện xu hướng bảo hộ trở lại và chống tự do hóa thương mại và đầu tư ở nhiều nơi,...

Năm 2018 là năm bản lề quyết định thắng lợi của việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2016 - 2020) do Đại hội XII của Đảng đề ra. Đất nước ta đang đứng trước những thời cơ, thuận lợi mới để phát triển nhanh và bền vững hơn trong thời gian tới. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư mở ra nhiều cơ hội, thuận lợi và cả những khó khăn, thách thức mới mà nước ta cần nắm bắt để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước đi trước.

Để phát huy kết quả xuất, nhập khẩu đã đạt được và thúc đẩy xuất, nhập khẩu tăng trưởng nhanh và bền vững, năm 2018 Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục thực hiện quyết liệt cải cách hành chính, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật và sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành ở tất cả các ngành, các cấp. Trước mắt, cần khẩn trương triển khai xây dựng Kế hoạch hành động để thực hiện một cách quyết liệt, hiệu quả Nghị quyết số 01/NQ-CP, ngày 01-01-2018, của Chính phủ, Về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2018.

Chính phủ và chính quyền các địa phương tiếp tục phát huy những thành tích, kết quả và bài học kinh nghiệm đã đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém tồn tại, nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ các chỉ tiêu về môi trường kinh doanh, tạo chuyển biến rõ nét và thực chất trong cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Bên cạnh đó, Chính phủ cần đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, cơ cấu lại ngành và doanh nghiệp nhà nước, trong đó cần lấy tiêu chí về năng lực cạnh tranh, khả năng tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu và hiệu quả trong đầu tư làm thước đo cuối cùng.

Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương cần triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp phát triển mạnh doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp; thường xuyên tổ chức các cuộc đối thoại với doanh nghiệp, kịp thời xử lý những phản ánh và kiến nghị của doanh nghiệp; chú trọng thu hút FDI sử dụng công nghệ cao và các tập đoàn đa quốc gia gắn với phát triển doanh nghiệp trong nước và công nghiệp hỗ trợ.

Về công tác hội nhập quốc tế về kinh tế, một mặt, tập trung khai thác tốt các FTA đã hoàn thành đàm phán, ký kết và đi vào có hiệu lực; mặt khác, tính toán lại chiến lược đàm phán các FTA tiếp theo để bảo đảm lợi ích cao hơn cho đất nước trong bối cảnh mới. Song song với việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền về hội nhập quốc tế, cần đổi mới một cách căn bản công tác theo dõi, hướng dẫn và tổ chức triển khai thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế của Việt Nam, nâng cao năng lực giải quyết các tranh chấp về thương mại và đầu tư quốc tế, bảo đảm cho quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam một cách hiệu quả và bền vững hơn.

Cùng với những giải pháp cụ thể về phát triển kinh tế, thu hút đầu tư phát triển sản xuất trong nước của Chính phủ và các bộ, ngành, Bộ Công Thương định hướng các giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả 3 định hướng chính là: 1- Phát triển sản xuất, tạo nguồn hàng có chất lượng cho xuất khẩu; 2- Phát triển thị trường, mở cửa thị trường cho xuất khẩu; 3- Tổ chức tốt hoạt động xuất khẩu, kết nối chuỗi liên kết sản xuất - chế biến - xuất khẩu.

Bộ Công Thương xác định sẽ tập trung mạnh vào đổi mới, nâng cao hiệu quả của cơ chế phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và hiệp hội doanh nghiệp để tạo sự kết nối, phối hợp đồng bộ hơn trong việc xử lý các vấn đề phát sinh trong thương mại quốc tế, như vượt qua các rào cản thương mại, kiểm dịch động, thực vật, các vấn đề về chống trợ cấp, chống bán phá giá của nước ngoài đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Cùng với đó là thay đổi một cách căn bản hơn công tác xúc tiến thương mại và mở rộng thị trường cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Cụ thể các công việc Bộ Công Thương và các bộ, ngành, địa phương cần triển khai trong thời gian tới để nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy xuất khẩu tập trung ở 7 nhóm giải pháp là: 1- Chú trọng cải cách thể chế, hoàn thiện hành lang pháp lý và cải cách bộ máy tổ chức quản lý nhà nước, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh để huy động nguồn lực cho sản xuất; 2- Chú trọng tạo nguồn hàng có chất lượng cho sản xuất, hướng tới mục tiêu nâng cao giá trị gia tăng, sản xuất các sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn về chất lượng, an toàn thực phẩm và phù hợp với nhu cầu thị trường nhập khẩu; 3- Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, cảnh báo đối với các biện pháp phòng vệ thương mại áp dụng lên hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Kịp thời chỉ đạo các giải pháp cụ thể, quyết liệt, có định hướng để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu, phát triển thị trường; 4- Nghiên cứu các giải pháp, biện pháp phát triển xuất khẩu, nhập khẩu với từng thị trường quan trọng; tìm kiếm khả năng mở rộng các thị trường xuất khẩu mới còn tiềm năng đồng thời củng cố và mở rộng thị phần hàng hóa Việt Nam tại thị trường truyền thống, thị trường là đối tác FTA; 5- Tăng cường các biện pháp tháo gỡ rào cản, tạo điều kiện cho hàng hóa xuất khẩu đặc biệt là nông, thủy sản thâm nhập vào các thị trường mới; 6- Đẩy nhanh tiến trình đàm phán, ký kết, phê duyệt các FTA giữa Việt Nam và các nước; 7- Đẩy mạnh công tác quản lý và phát triển thị trường trong nước, đấu tranh phòng, chống buôn lậu, hàng giả, hàng nhái, gian lận thương mại.

Trong bối cảnh tình hình khu vực và thế giới có những diễn biến phức tạp, khó lường, tư tưởng bảo hộ thương mại đang xuất hiện ở một số nước, để tiếp tục đạt được những kết quả tích cực trong hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và xuất, nhập khẩu nói riêng, cần sự vào cuộc mạnh mẽ, đồng bộ trên tất cả các phương diện, sự phối hợp tốt hơn nữa giữa các bộ, ngành, địa phương trong cải cách thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và không thể thiếu sự nỗ lực, tinh thần đổi mới, sáng tạo của khu vực doanh nghiệp tư nhân. Bộ Công Thương sẽ luôn đồng hành, lắng nghe ý kiến và phản hồi của các doanh nghiệp về các vấn đề chính sách để cùng tháo gỡ những khó khăn, phát triển thị trường xuất khẩu cho hàng hóa Việt Nam./.