Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, ngày càng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
Trước hết cần khẳng định rằng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước kiểu mới được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là một Nhà nước đại đoàn kết toàn dân, dựa trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Một Nhà nước khác về chất so với Nhà nước pháp quyền tư sản chứa đựng thuộc tính bất bình đẳng, áp bức, bất công đã không được nhân dân ta lựa chọn.
Ý tưởng xây dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã được thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng ta từ hồi còn hoạt động bí mật ; sau Cách mạng Tháng Tám thành công, ý tưởng này đã được khẳng định ngay trong Hiến pháp năm 1946 và tiếp theo được thể hiện ngày càng rõ nét hơn phù hợp với từng giai đoạn cách mạng trong các bản Hiến pháp 1959, 1980. Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định : "Nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích là vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương đều do dân cử". Cương lĩnh Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1991 và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đều khẳng định : "Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân". Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX nhấn mạnh nhiệm vụ đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, trong đó nhiệm vụ cốt lõi là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước pháp quyền, nói một cách khái quát là hệ thống các tư tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và đề cao quyền của con người, quyền của công dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm mọi quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Đó là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ các quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân, ngăn ngừa mọi sự tùy tiện lạm quyền từ phía cơ quan Nhà nước và cán bộ viên chức Nhà nước, ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật kỷ cương, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Đó là Nhà nước mà tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, kể cả tổ chức Đảng đều phải hoạt động theo pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các hoạt động của mình. Mọi công dân đều có nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và pháp luật, phải sống và làm việc theo pháp luật.
Hiến pháp và pháp luật nước ta xác nhận quyền của công dân tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với các cơ quan Nhà nước. Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đảm bảo mọi quyền tự do cơ bản trong đó có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền khiếu nại, tố cáo. Các quyền tự do đó là cơ sở để nhân dân kiểm tra hoạt động của Nhà nước và là một trong những phương thức quan trọng để thực hiện dân chủ. Vì vậy việc chăm lo con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người ; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia ; đổi mới thể chế, xác định trách nhiệm của các cấp, các cơ quan, cán bộ, công chức trong việc giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân ; thực hiện tốt Quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng, khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức,... là những nội dung hết sức quan trọng của việc thực thi Hiến pháp và pháp luật.
Quyền lực Nhà nước ở nước ta là quyền lực Nhà nước thống nhất. Đó là sự thống nhất ở mục tiêu chung phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước, của dân tộc. Xét theo thể chế tổ chức thì quyền lực Nhà nước tập trung vào những cơ quan đại diện cho nhân dân, do tuyệt đại đa số cử tri bầu ra và do đó là quyền lực của nhân dân giao phó cho các đại diện của mình. Ở nước ta, đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội có thẩm quyền lập hiến và lập pháp ; quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước ; quyền quyết định kế hoạch phát triển đất nước và những vấn đề quốc kế dân sinh về đối nội, đối ngoại quan trọng nhất ; quyền lập ra các cơ quan và chức vụ quốc gia cao nhất. Các cơ quan và những người có chức vụ cao nhất ấy phải chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên.
Một trong những điểm cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân là quyền lực Nhà nước thống nhất trên cơ sở phân công và phối hợp trong việc thực hiện ba quyền : lập pháp, hành pháp, tư pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Có thể hiểu rằng, sự thống nhất là nền tảng, sự phân công và phối hợp là phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng cũng nhằm đảm bảo cho sự phân công và phối hợp đó được thông suốt, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, đưa Cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng vào cuộc sống.
Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động lập pháp đang đứng trước yêu cầu to lớn về hoàn thiện hệ thống luật pháp cũng như những yêu cầu mới mẻ và phức tạp của việc điều chỉnh pháp luật đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, hợp tác và hội nhập quốc tế. Lập pháp một mặt phải giải quyết cho được nhiệm vụ thiết kế và từng bước hoàn chỉnh hệ thống các bộ luật điều chỉnh được tất cả các lĩnh vực hoạt động của xã hội, mặt khác phải xác định cho được những thứ tự ưu tiên cần thiết, nâng cao tính khả thi của các quy định pháp luật, tính hiệu lực và hiệu quả của việc áp dụng pháp luật vào cuộc sống. Hoạt động lập pháp phải vừa bảo đảm chất lượng, vừa theo kịp yêu cầu của sự phát triển. Muốn vậy, cần tổ chức tốt hơn nữa quy trình lập pháp. Quy trình đó vừa phải bảo đảm phản ánh được sự phát triển sống động của đời sống xã hội trong các lĩnh vực, lại vừa đảm bảo tính khoa học, tính chuyên môn pháp lý của các quy định, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa khâu làm luật với việc ban hành các văn bản dưới luật và tổ chức thực thi pháp luật.
Đảng và Nhà nước đã có nhiều nỗ lực đổi mới và cải cách nhưng tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước của nước ta còn bộc lộ không ít nhược điểm, còn nhiều mặt chưa theo kịp và đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Tổ chức hành pháp chưa thông suốt, còn nhiều hạn chế trong việc xử lý những mối liên kết dọc và ngang, thậm chí còn có hiện tượng cục bộ, bản vị. Chế độ phân cấp trách nhiệm còn thiếu rành mạch làm trầm trọng thêm tác phong làm việc quan liêu và dựa dẫm. Thẩm quyền và trách nhiệm cá nhân chưa được quy định chặt chẽ. Phong cách làm việc và trách nhiệm trước dân của đội ngũ công chức, viên chức còn là vấn đề bức xúc. Vì vậy, Đảng ta chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính và đặt thành một nhiệm vụ chiến lược cần được xem xét trên cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm xây dựng cho được một nền hành chính Nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa.
Một trong những nội dung cơ bản của nguyên tắc phân công và phối hợp quyền lực Nhà nước và cải cách hành chính là sự phân công, phân cấp giữa trung ương và địa phương, sự phối hợp giữa chính quyền với các bộ phận hợp thành của hệ thống chính trị. Sự phân công, phân cấp ấy phải dựa trên cơ sở khuyến khích, nâng cao trách nhiệm và tính chủ động của các bộ phận hợp thành và các cấp chính quyền, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Về lĩnh vực hoạt động tư pháp, đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước ta trước sau như một đều khẳng định các yêu cầu về bình đẳng, công bằng, tính công khai, minh bạch trong hoạt động bảo vệ pháp luật, về nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, bảo đảm mọi vi phạm đều bị xử lý đúng và nghiêm minh, tăng cường bảo vệ các quyền chính đáng và lợi ích hợp pháp của công dân và các tổ chức trong xã hội, đề cao các nguyên tắc về tôn trọng và bảo vệ quyền con người, ngăn chặn oan, sai trong các khâu điều tra, truy tố và xét xử. Tuy nhiên, bên cạnh những nỗ lực và thành tựu đã đạt được trong việc củng cố kiện toàn các cơ quan tư pháp, nhìn chung sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với khâu trọng yếu này chưa ngang tầm cả về mặt tổ chức, cán bộ cũng như điều kiện hoạt động của hệ thống tư pháp. Hoạt động của các cơ quan tư pháp nước nhà còn nhiều bất cập, sai sót. Việc kiện toàn và nâng cao chất lượng các hoạt động tư pháp đã trở thành đòi hỏi bức xúc của nhân dân ta. Trên cơ sở những thành tựu và kinh nghiệm đã có, cần đẩy mạnh cải cách tư pháp đảm bảo tính công minh, khách quan và tính độc lập, giám sát lẫn nhau ở từng khâu của tiến trình tố tụng và từng cấp xét xử : điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, đảm bảo công minh, chống oan sai ; nâng cao năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp trách nhiệm chính trị - pháp lý của cán bộ tư pháp.
Trong thời kỳ đất nước ta còn chưa giành được độc lập, trong "Yêu sách của nhân dân An Nam" đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã từng đưa ra yêu cầu "phải thay thế chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật". Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn đề cao vai trò của chế độ pháp quyền. Người từng nói : "Trăm điều phải có thần linh pháp quyền". Vì thế, chỉ một ngày sau khi nước nhà giành được độc lập, Người đã khẳng định : "Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ". Pháp luật của Nhà nước ta phản ánh đường lối, chính sách của Đảng và lợi ích của nhân dân. Nhà nước pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải có một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ cương. Pháp luật thể chế hóa yêu cầu quản lý xã hội, là hình thức tồn tại của các cơ cấu, tổ chức xã hội và các thiết chế Nhà nước. Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là lối sống có trật tự và lành mạnh của xã hội. Nhà nước làm ra và ban hành pháp luật, nhưng lại phải tự đặt mình trong sự ràng buộc thẩm quyền và trách nhiệm trước pháp luật, trong khuôn khổ các quy định của pháp luật. Phục tùng pháp luật là phục tùng ý chí và lợi ích của nhân dân, đường lối, chính sách của Đảng. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là quyết tâm đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật nghiêm minh.
Đề cao pháp luật, tăng cường pháp chế phải đi liền với mối quan tâm làm sao để đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo thói quen và nếp sống tôn trọng pháp luật trong cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân. Vì vậy, xây dựng pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống phải thực sự là hai mặt của một nhiệm vụ. Đổi mới và hoàn thiện pháp luật phải đi liền với đổi mới và hoàn thiện thực tiễn áp dụng pháp luật. Tăng cường hoạt động xây dựng pháp luật phải đi liền với việc khuyến khích, tạo điều kiện cho các hoạt động của các tổ chức và công dân nhằm sử dụng đầy đủ quyền và thực hiện tốt nghĩa vụ của họ, sự khuyến khích tính tích cực pháp lý của họ phải đi liền với việc hoàn thiện các thủ tục pháp lý, cải cách hành chính và hệ thống tư pháp. Đồng thời, đề cao pháp luật, pháp chế còn đặt ra nhiệm vụ phải bằng mọi cách nâng cao hiểu biết pháp luật, tổ chức tốt các công tác tư vấn pháp luật cho mọi tổ chức và công dân, đấu tranh có hiệu quả với các vi phạm và tội phạm, kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy và trong đội ngũ cán bộ viên chức Nhà nước.
Thực thi quyền lực và thi hành pháp luật là những hoạt động luôn luôn cần đến sự kiểm tra, giám sát đầy đủ và hữu hiệu. Trong một Nhà nước pháp quyền các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải thực sự được coi trọng và hoàn thiện ở mức cao nhất, bảo đảm cho quyền lực Nhà nước luôn nằm trong quỹ đạo thực thi tốt nhất quyền dân chủ của công dân, phục vụ lợi ích chung của xã hội, của đất nước, pháp luật luôn được tôn trọng, pháp chế và kỷ cương phải được giữ vững. Đối với các cơ quan Nhà nước, kiểm tra, giám sát là cách tốt nhất để các cơ quan đó thực hiện đúng chức trách và thẩm quyền của mình, đồng thời là điều kiện để phối hợp các hoạt động một cách có hiệu quả. Đến lượt mình, các hoạt động, các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải có sự phân công, phối hợp đầy đủ và hoàn thiện hơn. Đặc biệt, cần nhấn mạnh quyền giám sát tối cao của Quốc hội và quyền giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp. Các quyền đó phải có chế tài để đảm bảo thực quyền.
Nhà nước pháp quyền của chế độ ta thể hiện những tư tưởng quan điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh mơ ước và khát vọng của nhân dân đối với công lý, tự do, bình đẳng trong xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài ; là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên. Mặt trận có vai trò to lớn trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc phải được củng cố và phát triển sâu rộng trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của hội viên, đoàn viên, giữ gìn kỷ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, góp phần rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhân dân vừa thực hiện quyền dân chủ trực tiếp vừa thực hiện quyền dân chủ thông qua đại diện là các cơ quan Nhà nước, các đại biểu nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên. Đảng và Nhà nước xây dựng và hoàn thiện các quy chế để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, qua đó tăng cường đoàn kết toàn dân, củng cố sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong xã hội.
Với tinh thần đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cần phát huy đầy đủ vai trò đại diện nhân dân trong tổ chức bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp ; tham gia xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước ; tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện giám sát của nhân dân đối với việc thực thi trách nhiệm và đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức, đại biểu dân cử và các cơ quan Nhà nước ; tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước ; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân ; giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân ; tham gia công tác hòa giải ; hướng dẫn và giúp đỡ Thanh tra nhân dân ở cơ sở.
Cần tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo hướng : khắc phục tình trạng hành chính hóa, hình thức, quan liêu, xa dân ; thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ; tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư, xây dựng đời sống văn hóa, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, gắn liền với các chương trình kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, từng địa phương và địa bàn dân cư ; hướng mạnh các hoạt động về cơ sở, cộng đồng dân cư và từng gia đình.
Trong thiết chế chính trị - xã hội của nước ta, không thể xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh nếu không xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Theo ý nghĩa đó, nhân dân ta đòi hỏi và đặt niềm tin vào cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng được Đảng phát động tổ chức thực hiện với quyết tâm cao, coi đó là nhiệm vụ then chốt của toàn Đảng, toàn dân trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, đảm bảo thực hiện quyền làm chủ của nhân dân là một cuộc đấu tranh lâu dài phức tạp, vừa phải chống tư tưởng bảo thủ, vừa phải chống tư tưởng cực đoan và phải đi từng bước vững chắc, giữ vững ổn định chính trị. Cần kiên định các nguyên tắc cơ bản về xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã đúc kết được, kiên quyết vạch trần và nghiêm khắc phê phán những luận điệu xuyên tạc của những phần tử thù địch. Với quyết tâm cháy bỏng thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong những năm đầu của thế kỷ XXI vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh ; với sự lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta tin tưởng nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân sẽ tiếp tục giành được những thành tựu mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Số lượng doanh nghiệp  (17/01/2007)
Người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư về nước  (17/01/2007)
Số truy cập Internet  (17/01/2007)
Huy động vốn  (17/01/2007)
Công ty xuyên quốc gia  (17/01/2007)
Dân số thế giới  (17/01/2007)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển