Những yếu tố tác động đến công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới

PGS, TS. ĐINH NGỌC GIANG
Vụ trưởng Vụ Quản lý khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
15:23, ngày 22-10-2021

TCCS - Ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị khóa XII ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Nghị quyết khẳng định, đây là một nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng, liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Nhận diện những yếu tố tác động đến việc thực hiện nhiệm vụ này là việc làm cần thiết để thấy rõ hơn những thuận lợi, khó khăn trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay.

Đảng Cộng sản Việt Nam xác định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Tại Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,... thường xuyên đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng”(1). Đây là một nhiệm vụ đầy khó khăn, thử thách bởi có nhiều yếu tố tác động đan xen, cả thuận lợi và thách thức, trở ngại, từ bên trong và bên ngoài, đặc biệt là những yếu tố chủ yếu sau:

Đường lối lãnh đạo của Đảng

Đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng là yếu tố quyết định bảo đảm thắng lợi trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng (Trong ảnh: Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ra mắt Đại hội) _Ảnh: Tư liệu

Đường lối lãnh đạo của Đảng được thể hiện qua các cương lĩnh, nghị quyết. Hơn 90 năm qua, đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng trên cơ sở vận dụng, kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với thực tiễn nước ta qua mỗi thời kỳ lịch sử. Những thành quả cách mạng vĩ đại, đặc biệt là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của hơn 35 năm đổi mới đất nước chính là bằng chứng thuyết phục, chứng minh việc Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là đúng đắn, vừa đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân, vừa phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Điều này đã được khẳng định rõ trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: “Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”(2). Từ đây, Đảng ta đã đưa ra một nhận định quan trọng mang tính tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về đường lối đổi mới đất nước: “Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới”(3).

Thực tế cho thấy, đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng là yếu tố quyết định bảo đảm thắng lợi trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta hiện nay. Một mặt, đường lối lãnh đạo sáng suốt, mang lại những thành quả quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước chính là một bằng chứng thuyết phục nhất để khẳng định việc Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là đúng đắn; mặt khác, những thành quả mà nhân dân ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng góp phần quan trọng trong việc củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa nhân dân với Đảng để tạo thành sức mạnh đấu tranh phản bác những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch muốn chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng. Dựa vững vào đường lối của Đảng, thực hiện đúng đường lối của Đảng là vấn đề có tính nguyên tắc trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế và sự chống phá ngày càng tinh vi, quyết liệt của các thế lực thù địch

Đây là đối tượng của cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; do đó, cần nhận diện rõ và đấu tranh kiên quyết, trực diện.

Tình hình chính trị quốc tế, đặc biệt là mâu thuẫn giữa các quốc gia, dân tộc cùng với âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước là những yếu tố ngược chiều có tác động trực tiếp đến công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta. Thực tiễn cho thấy, cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu lâm vào thoái trào và tan rã, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta đã gặp rất nhiều khó khăn, thách thức. Không chỉ những người có lập trường tư tưởng phi mác-xít, mà ngay cả một số người trước đây vốn đi theo chủ nghĩa Mác, luôn ủng hộ chủ nghĩa xã hội, thì thời điểm đó cũng tỏ ra hoài nghi, dao động, lên tiếng phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phủ nhận giá trị cốt lõi trong nền tảng tư tưởng của Đảng.

Trong những năm gần đây, tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến vô cùng nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Tuy hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ yếu, song thế giới đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, như: “Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy đang nổi lên”(4), các vấn đề an ninh phi truyền thống vẫn đang tiếp diễn, đại dịch COVID-19 vẫn có những diễn biến phức tạp trên phạm vi toàn cầu... Đặc biệt, “Sự chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động ngày càng tinh vi hơn”(5). Điều này tiếp tục gây nên những khó khăn, cản trở rất lớn đối với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Các thế lực thù địch đã triệt để lợi dụng những “điểm nóng” trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội của Việt Nam, nhằm xuyên tạc tình hình phát triển của đất nước, mưu toan hướng lái những tư tưởng và hành động sai trái, gây chống đối, “bất tuân dân sự”, bạo lực và bạo động trong cộng đồng và xã hội; từ đó lôi kéo, tập hợp những phần tử bất mãn, cơ hội chính trị trong và ngoài nước, các tổ chức quốc tế và chính phủ các nước can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Trong thời gian gần đây, các thế lực thù địch đã tận dụng tối đa phương tiện truyền thông, như in-tơ-nét, mạng xã hội cùng với hệ thống phát thanh, báo chí, xuất bản ở hải ngoại để phát tán các bài viết tuyên truyền xuyên tạc sai sự thật về Việt Nam, đồng thời đăng tải nhiều video clip xấu, độc lên Facebook, Youtube..., thư gửi, kiến nghị, tuyên bố, hội thảo của các tổ chức, cá nhân; trao giải thưởng của các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ và của các tổ chức phản động, đối lập; trả lời phỏng vấn, bình luận của các báo, đài... Sự chống phá ngày càng tinh vi, quyết liệt đó đã tác động không nhỏ đến nhận thức, tâm lý, thái độ của một bộ phận nhân dân, trong đó có cả những cán bộ, đảng viên.

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và tình hình chính trị, tư tưởng của cán bộ, đảng viên

Trong những năm qua, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và tình hình chính trị, tư tưởng của cán bộ, đảng viên được Đảng ta đặc biệt chú trọng. Đây chính là điều kiện đặc biệt quan trọng, là cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay.

Chỉ trong 10 năm (2011 - 2021), đã có nhiều nghị quyết, quy định quan trọng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được ban hành; trong đó, tiêu biểu là Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16-1-2012, của Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Nghị quyết số 04/NQ-TW, ngày 30-10-2016, của Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương, về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”... Những nghị quyết, quy định đó đã góp phần quan trọng trong việc tạo nên những chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở nước ta, như Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được Trung ương và cấp ủy các cấp đặc biệt coi trọng, triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt và đạt được nhiều kết quả rõ rệt, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng”(6).

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, “những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và tình trạng tham nhũng, lãng phí, tiêu cực... còn diễn biến phức tạp”(7). Nghiêm trọng hơn, “Một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; một số ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng”(8). Trong nhiệm kỳ qua, “cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 2.209 cán bộ, đảng viên có liên quan đến tham nhũng; trong đó có 113 cán bộ diện Trung ương quản lý cả đương chức và đã nghỉ hưu”(9). Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, đặc biệt là mơ hồ, hoài nghi về mục tiêu, lý tưởng, con đường phát triển của đất nước; cùng với tệ tham ô, tham nhũng, lãng phí chính là những thách thức lớn cho công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh hiện nay. Điều đó dẫn đến một hệ lụy vô cùng nguy hại như Đảng ta đã từng cảnh báo, “sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”(10).

Trong thời gian gần đây, các thế lực thù địch đã lợi dụng tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên để móc nối, xâm nhập vào nội bộ của Đảng, tìm cách phân hóa tổ chức để tìm ra “ngọn cờ” tập hợp lực lượng. “Ngọn cờ” mà các thế lực thù địch hướng tới chính là những phần tử ở ngay trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, nhưng có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, bất mãn, cơ hội chính trị. Đây chính là những kẻ “tay trong” được các thế lực thù địch lợi dụng nhằm lấy thông tin để thêu dệt, xuyên tạc về các đồng chí lãnh đạo của Đảng nói riêng và công tác nhân sự của Đảng nói chung. Do đó, đây thực sự là một yếu tố bất lợi, tác động trực tiếp đến công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

Cơ chế, chính sách, cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật

Cơ chế, chính sách cùng cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật là những điều kiện bảo đảm cần thiết và rất quan trọng cho việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Nếu cơ chế, chính sách tác động đến việc huy động lực lượng, tổ chức triển khai thì cơ sở vật chất, kỹ thuật có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả của việc phát hiện, đấu tranh với những thủ đoạn của các thế lực thù địch để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư và đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương trao giải A cho các tác giả tại Lễ trao giải cuộc thi viết chính luận khoa học “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” _Ảnh: TTXVN

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là một nhiệm vụ hết sức khó khăn, vì “địch đứng trong bóng tối, ta đứng ngoài ánh sáng; địch có năm, bảy kẻ thù với nhiều âm mưu, thủ đoạn, được sự hậu thuẫn của tài chính, khoa học - kỹ thuật còn ta vẫn chỉ là một nước đang phát triển”(11). Tuy nhiệm vụ khó khăn như vậy, nhưng thực tế cho thấy, những điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện nhiệm vụ vẫn còn nhiều hạn chế, “chưa có cơ chế, chính sách hữu hiệu về vật chất, tinh thần thỏa đáng để thu hút đông đảo lực lượng tham gia đấu tranh”(12).

Về nhân lực, hiện nay nước ta có đội ngũ đông đảo các chuyên gia, nhà khoa học, trong đó nhiều người có trình độ chuyên môn giỏi, trình độ lý luận chính trị cao. Tuy nhiên, trong bối cảnh các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng các phương tiện truyền thông, nhất là in-tơ-nét và mạng xã hội, để đẩy mạnh các hoạt động chống phá trên không gian mạng, thì một số chuyên gia, nhà khoa học lại chưa thực sự theo kịp sự phát triển của mạng xã hội để đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị trong tình hình mới. Hơn nữa, “trình độ khai thác, sử dụng công nghệ thông tin mạng của không ít cơ quan, đơn vị, đội ngũ cán bộ, đảng viên còn hạn chế, vì thế, đấu tranh trên không gian mạng còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng”(13). Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có các chuyên gia, nhà khoa học, gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin, không nắm rõ được những luận điệu, thủ đoạn chống phá mới của các thế lực thù địch; thiếu kỹ năng viết bài và chia sẻ tin, bài trên không gian mạng. Do đó, “Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao; công tác nắm bắt dư luận trước những sự kiện, tình huống bất ngờ còn chưa kịp thời”(14).

Hiện nay, chúng ta đã chú trọng đến việc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - lý luận, nhưng thực tế cho thấy, mạng xã hội mới là “trận địa” chính để các thế lực phản động, thù địch tiến hành thực hiện âm mưu chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho việc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng còn chưa đáp ứng yêu cầu; việc rà soát, phát hiện các trang mạng, các đối tượng phản động còn chậm; cách thức tiến hành đấu tranh, tác chiến trên không gian mạng, sử dụng các biện pháp kỹ thuật để vô hiệu hóa thủ đoạn của các thế lực thù địch... còn chưa đạt hiệu quả như mong muốn.

Một khía cạnh khác là, hiện nay, mới chủ yếu có lực lượng công an, quân đội tham gia sâu vào việc đấu tranh trên không gian mạng, còn ở các cơ quan, đơn vị bên ngoài phần lớn chưa hình thành được lực lượng đấu tranh chuyên trách trên mạng. Điều đó dẫn đến một bất cập trong việc đấu tranh trên không gian mạng hiện nay là chúng ta chưa thực sự nhận diện đúng và đầy đủ những âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc của các thế lực thù địch; để chúng hoành hành trên không gian mạng. Các thế lực thù địch đang rất coi trọng các phương tiện truyền thông đại chúng và tuyên truyền kiểu “rỉ tai”, kích động; chúng sử dụng trên 40 đài phát thanh, truyền hình, gần 400 tờ báo, tạp chí tiếng Việt (trong đó, có khoảng 10 tờ với nội dung rất phản động), 66 nhà xuất bản để tuyên truyền, chống phá cách mạng Việt Nam, đưa một số lượng lớn tài liệu, sách báo, truyền đơn, băng hình... có nội dung phản động, đồi trụy vào Việt Nam, chỉ đạo bọn “bồi bút”, cơ hội viết nhiều bài xuyên tạc, bôi nhọ tình hình Việt Nam(15).

Những hạn chế về cơ chế, chính sách, các điều kiện về nguồn lực, phương tiện vật chất - kỹ thuật đã tác động trực tiếp đến việc thực hiện công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta trong thời gian qua. Những hạn chế đó làm cho việc thực hiện nhiệm vụ gặp nhiều khó khăn, chủ yếu mới được triển khai trên bề rộng. Ở một số nơi, có những thời điểm, việc thực hiện công tác đấu tranh còn chưa đi vào thực chất, chưa có hiệu quả rõ rệt, mới chủ yếu là xử lý tình huống nảy sinh, chứ chưa có chiến lược lâu dài và chưa thực sự giành được thế chủ động, nhất là trên không gian mạng.

Phóng viên các cơ quan thông tấn, báo chí trong nước và quốc tế tác nghiệp tại một buổi họp báo _Ảnh: TTXVN

Năng lực, bản lĩnh, ý thức trách nhiệm, sự tham gia của cán bộ, đảng viên, nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan truyền thông, báo chí

Tại Nghị quyết số 35-CT/TW, Đảng ta khẳng định bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân, trong đó các cơ quan báo chí, tuyên truyền các cấp là lực lượng nòng cốt; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu.

Trình độ, năng lực, bản lĩnh, ý thức trách nhiệm của các chủ thể tác động trực tiếp đến hiệu quả việc nắm bắt nội dung, tầm quan trọng của nền tảng tư tưởng; từ đó, có cách thức nhận diện với âm mưu của các thế lực thù địch, có kỹ năng đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc, chống phá, nhất là trên không gian mạng. Thời gian qua, một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa ý thức đúng và đầy đủ về trách nhiệm của mình trong việc tích cực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Nhiều cán bộ, đảng viên còn có tâm lý “lười”, “ngại” học tập lý luận chính trị nên khó có khả năng “tự miễn dịch” trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Những hạn chế, yếu kém mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII khẳng định vẫn còn hiện hữu: “Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao”(16)

Sự tham gia của nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội không chỉ tác động đến việc xây dựng mạng lưới đấu tranh rộng khắp, với hoạt động của nhiều người, trên nhiều mặt trận, nhiều diễn đàn để tạo thành thế trận vững chắc, mà còn nâng cao khả năng giám sát, phản biện xã hội đối với việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên, cấp ủy và chính quyền các cấp. Ngoài ra, hoạt động của các cơ quan truyền thông, báo chí cũng có tác động không nhỏ đến hiệu quả thực hiện công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay. Nếu các cơ quan truyền thông, báo chí làm tốt vai trò của mình, chủ động phản ánh những thông tin có nội dung tích cực, sắc bén, thì sẽ góp phần lan tỏa, khẳng định giá trị nền tảng tư tưởng của Đảng theo phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”. Ngược lại, nếu các cơ quan này không làm tốt vai trò, trách nhiệm của mình, những thông tin xấu, độc sẽ lan tràn, mất kiểm soát, gây ảnh hưởng xấu đến tâm lý, tư tưởng, dư luận xã hội, gây khó khăn, cản trở trong việc nhận diện và phản bác các luận điệu sai trái, thù địch.

Đánh giá về công tác tư tưởng của Đảng trong thời gian qua, Đại hội XIII của Đảng đã nhận định: “Công tác thông tin, tuyên truyền một số đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa kịp thời, hình thức chưa phong phú... Việc dự báo, nắm bắt tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và định hướng dư luận xã hội có lúc chưa kịp thời. Kết quả thực hiện một số chủ trương của Đảng về quản lý báo chí, truyền thông, xuất bản, quản lý internet, mạng xã hội chưa đáp ứng yêu cầu”(17). Đây chính là những rào cản lớn gây nên những khó khăn, bất lợi trong công tác thông tin, tuyên truyền về nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở nước ta hiện nay.

Như vậy, có rất nhiều yếu tố tác động đến việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta hiện nay. Những yếu tố đó tác động đa chiều, vừa mang đến cả thuận lợi, vừa gây nên những khó khăn, thách thức không nhỏ trong việc thực hiện nhiệm vụ. Do đó, yêu cầu đặt ra hiện nay là cần phải biết tận dụng những yếu tố thuận lợi, mang lại những hiệu quả tích cực; từng bước khắc phục những yếu tố gây cản trở, khó khăn để việc thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị đạt được nhiều kết quả tốt đẹp, ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, huy động được đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan truyền thông, báo chí tham gia./.

--------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 40 – 41
(2), (3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 25 - 26, 26
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 163
(5), (6), (7), (8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 164, 164 - 165, 164, 168
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 208 - 209
(10) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 23
(11) Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam: Bảo vệ và phát triển tư tưởng của Đảng trong tình hình mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 21 - 22
(12) Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam: Phòng, chống âm mưu, thủ đoạn tuyên truyền chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 131
(13) Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam: Phòng, chống âm mưu, thủ đoạn tuyên truyền chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, Sđd, tr. 129 - 130
(14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 91
(15) Xem Bùi Đình Bôn: “Nhận diện sự chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa”, Tạp chí Cộng sản điện tử, https://www.tapchicongsan.org.vn/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/45300/nhan-dien-su-chong-pha-cua-cac-the-luc-thu-dich-tren-linh-vuc-tu-tuong---van-hoa.aspx
(16) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Sđd, tr. 22 - 23
(17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 172