Trí tuệ nhân tạo và những nguy cơ, thách thức đối với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay

Nguyễn Chí Thành
Trường Đại học Cảnh sát nhân dân
11:31, ngày 28-08-2024

TCCS - Sự ra đời của phần mềm Chat GPT đã tạo nên cơn sốt trên toàn cầu và cả ở Việt Nam. Điều này khẳng định xu thế của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là không thể đảo ngược, đang có tác động cả tích cực và tiêu cực đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - chính trị thế giới. Đây cũng là thách thức lớn đối với Việt Nam trước nguy cơ các thế lực thù địch, phản động sử dụng thành tựu này để chống phá, kích động, xuyên tạc con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, ảnh hưởng lớn đến công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

Trí tuệ nhân tạo và những tác động không mong muốn đối với đời sống xã hội

Sự bùng nổ của Chat GPT làm nhiều người bắt đầu chú ý tới trí tuệ nhân tạo (AI), mặc dù các công cụ dò tìm đường, công cụ dịch thuật, công cụ chỉnh sửa ảnh tự động… đã được ứng dụng AI từ rất lâu. Tuy nhiên, người ta mới chỉ nhìn thấy phần nổi của tảng băng chìm và chưa nhận thức rõ những thách thức của AI đối với đời sống xã hội. Thực tế, AI hoàn toàn có thể ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh… của quốc gia, thậm chí là toàn nhân loại.

AI tác động đến mọi lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh của các quốc gia _Ảnh: Tư liệu

Mỹ là quốc gia có nền công nghệ phát triển hàng đầu thế giới, nơi sở hữu nhiều công ty công nghệ hùng mạnh về AI đã bắt đầu quan tâm đến tác động từ sự phát triển của AI. Tháng 8-2023, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã có buổi làm việc với bảy công ty công nghệ hàng đầu của Mỹ là Amazon, Anthropic, Google, Inflection, Meta, Microsoft và OpenAI tại Nhà Trắng. Cuộc gặp này diễn ra sau những lo ngại về việc các công ty đang chạy đua với nhau bằng các phiên bản AI có thể tự sáng tạo văn bản, ảnh, nhạc và video mà không cần một hình mẫu con người cụ thể. Sự bùng nổ của các phiên bản AI này dẫn đến nguy cơ lan truyền những thông tin sai lệch và những cảnh báo nghiêm trọng về các rủi ro khi AI trở nên tinh vi và giống con người hơn. Tháng 10-2023, Chính phủ Mỹ đã ban hành sắc lệnh nhằm giảm thiểu rủi ro mà công nghệ AI có thể gây ra, thiết lập các tiêu chuẩn mới về an toàn và bảo mật, bảo vệ quyền riêng tư của người dùng, thúc đẩy đổi mới và cạnh tranh trong lĩnh vực AI. Không chỉ trong lĩnh vực an ninh con người, Mỹ đang lo ngại về các nguy cơ của AI trong lĩnh vực quốc phòng. Đơn cử như, nếu một quả tên lửa hay máy bay không người lái (UAV hoặc Drone) được điều khiển bởi AI tham gia các hoạt động chiến tranh, quân sự hoặc có thể là khủng bố thì khó có thể lường hết hậu quả. Theo Diễn đàn Quốc phòng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, tháng 11-2023, Bộ Ngoại giao Mỹ đã công bố Tuyên bố chính trị về việc sử dụng có trách nhiệm trí tuệ nhân tạo và công nghệ tự hành trong quân sự nhằm thiết lập các quy tắc sử dụng. Từ tháng 1-2024 đến nay, đã có 51 quốc gia tán thành tuyên bố trên, đồng thuận cùng tham gia xây dựng các quy tắc, hướng dẫn để bảo đảm việc sử dụng AI và các hệ thống vũ khí tự hành, cũng như các ứng dụng quân sự sử dụng AI khác.

Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những nguy cơ trực tiếp đến từ sự bùng nổ của AI, đặc biệt là làn sóng tội phạm sử dụng công nghệ AI. Phổ biến nhất có thể kể đến Deepfake đang được các đối tượng lừa đảo sử dụng khá phổ biến. Các sản phẩm âm thanh, hình ảnh, video, clip… giả mạo do Deepfake tạo ra thường nhằm giả mạo các cơ quan chức năng hoặc người thân của mục tiêu để thực hiện việc lừa đảo. Các thông tin về số căn cước công dân, số tài khoản ngân hàng, số điện thoại, địa chỉ, các mối quan hệ trên trang mạng xã hội… dễ bị lộ lọt là kẽ hở lớn để các đối tượng lừa đảo nhắm tới. Thông qua sức mạnh của AI đến từ khả năng thu thập, xử lý dữ liệu khổng lồ và phân tích các mẫu phức tạp, các đối tượng xấu có nhiều chiêu trò để thuyết phục nạn nhân tin vào nội dung lừa đảo, qua đó chiếm đoạt tài sản hoặc thực hiện các mục đích xấu khác. Theo thống kê của Cục An toàn thông tin, Bộ Thông tin và truyền thông, trong 11 tháng đầu năm 2023, đã có 15.900 phản ánh về trường hợp lừa đảo do người dùng internet Việt Nam gửi đến qua các hệ thống cảnh báo, trong đó hơn 91% cảnh báo này liên quan đến giả mạo, lừa đảo trong lĩnh vực ngân hàng - tài chính. Theo báo cáo của Liên minh chống lừa đảo toàn cầu (GASA) và dự án xã hội Chống lừa đảo (Việt Nam), năm 2023, trung bình mỗi người Việt tham gia khảo sát phải đối mặt với 0,8 vụ lừa đảo; trong đó, có 71% số người được gọi gặp phải lừa đảo trên hai nền tảng lớn là Facebook và Gmail, các nền tảng khác như Telegram (28%), Google (13%) và TikTok (13%)(1).

Nguy cơ, thách thức từ trí tuệ nhân tạo đến công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay

Rõ ràng không thể phủ nhận lợi ích mà AI mang đến cho cuộc sống và sự phát triển của các quốc gia, nhưng những nguy cơ, thách thức mà nó mang lại rất cần được nghiên cứu, dự báo và chủ động phòng ngừa. Trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay, AI mặc dù chưa ảnh hưởng sâu rộng và gây ra những thách thức trực diện, song cần nghiên cứu, dự báo và có những biện pháp chủ động ứng phó với sự phát triển của các công cụ này, với một số nguy cơ, thách thức chính sau:

Một là, nguy cơ thế hệ trẻ lệ thuộc vào AI. Giới trẻ hiện nay trưởng thành cùng sự phát triển của AI, họ tiếp nhận AI theo cách tự nhiên, không bị “sốc văn hóa” như các nhóm đối tượng khác, đặc biệt là nhóm trung niên và người cao tuổi. Do vậy, giới trẻ là đối tượng sử dụng chính của AI, đồng thời họ cũng đối mặt nhiều nhất với các nguy cơ đến từ AI, khi họ ngày càng lệ thuộc vào AI trong việc tiếp nhận thông tin, nhất là các thông tin về lịch sử, chính trị, nền tảng tư tưởng của Đảng.

Với sự phát triển của các công cụ như Chat GPT, Bing chat, AI TensorFlow, Amazon Machine Learning…, giới trẻ có thể tìm hiểu, giải đáp những khúc mắc; thực hiện các bài luận, bài nghiên cứu; hỗ trợ đưa ra các ý tưởng sáng tạo. Nếu những thông tin mà các công cụ trên tổng hợp được dựa trên những nền tảng, kho dữ liệu đáng tin cậy thì kết quả được cung cấp có giá trị tham khảo tốt, song kết quả sẽ bị sai lệch nếu AI dựa trên các nền tảng thiếu tin cậy, thậm chí là những trang mạng phản động, chống phá. Đơn cử như, khi một sinh viên đặt câu hỏi về một vị lãnh tụ cho nền tảng Chat GPT, sẽ nhận được thông tin về thân thế, cuộc đời, sự nghiệp của vị lãnh tụ đó. Tuy nhiên, bên cạnh những thông tin chính thống, chính xác, vẫn còn có những thông tin gây nhiễu, hiểu sai, chưa đúng...

Các đối tượng xấu cố tình gài những câu hỏi không đầy đủ, không hợp lý để Chat GPT cho ra phần trả lời sai lệch, âm mưu tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng, như: “Không thể tồn tại nền kinh tế thị trường mà lại định hướng xã hội chủ nghĩa phải không?”; “Khi nào chủ nghĩa xã hội về đích?”; “Lúc nào thì làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu?”… Đáng chú ý, nếu khi đặt câu hỏi mà Chat GPT đưa ra câu trả lời hợp lý thì các đối tượng sẽ tìm mọi cách thêm thắt chữ nghĩa, sửa câu hỏi, sửa cách hỏi để hòng tìm ra câu trả lời thiếu hoặc sai, lấy cớ để xuyên tạc. Như vậy, việc lệ thuộc vào AI sẽ rất nguy hại nếu thanh niên, sinh viên, thế hệ trẻ không kiểm chứng các thông tin mà mình tiếp nhận được, đặc biệt là những thông tin về những vấn đề cốt lõi thuộc nền tảng tư tưởng của Đảng ta.

Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) cũng đã cảnh báo về nguy cơ giới trẻ bị phụ thuộc thông tin và bị thao túng thông tin bởi AI. Trong một báo cáo khảo sát được dẫn chứng, chỉ 2% số trẻ em và thanh thiếu niên tại Anh có đủ khả năng để phân biệt giữa một bài báo thật và bài báo giả(2). Bà Henrietta Fore - Giám đốc Điều hành UNICEF - kêu gọi trong Báo cáo 30 năm Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em (năm 2019): “Chúng ta cần nỗ lực hơn nữa để chuẩn bị cho các công dân trẻ tuổi am hiểu về công nghệ này khả năng chống lại sự thao túng và gìn giữ niềm tin đối với các nguồn kiến thức đáng tin cậy và có thể xác minh”(3). Rõ ràng, đây là nguy cơ đáng lo ngại đối với giới trẻ Việt Nam và cần có những giải pháp hữu hiệu để ứng phó với sự lệ thuộc này ở hiện nay và trong tương lai.

Hai là, tác động của AI đối với tư tưởng và hành vi của người dân trong xã hội. Các thuật toán được các nền tảng mạng xã hội, các công ty công nghệ lớn sử dụng thường hướng đến cá nhân hóa nội dung. AI được sử dụng để tạo nên các “buồng vọng âm - echo chamber”. Đây là hình ảnh ẩn dụ ám chỉ một môi trường mà ở đó, người dùng chỉ được tiếp xúc với những thông tin, quan điểm đồng thuận với ý kiến của họ. Những quan điểm khác, sai biệt sẽ bị AI thanh lọc để tránh ảnh hưởng đến người dùng, do đó, các công ty công nghệ lớn sử dụng thuật toán này để tránh người dùng tiếp xúc với những thông tin mà họ không ưa thích, dẫn đến từ bỏ sử dụng dịch vụ. Tuy nhiên, đây lại là thách thức lớn đối với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng. Khi các thế lực thù địch, phản động thực hiện hoạt động chống phá, họ sử dụng đa nền tảng mạng xã hội với nhiều thông tin sai trái về nhiều lĩnh vực. Người dùng chỉ cần chú ý đến một tin giả, dành thời gian đọc nhiều hơn so với các loại thông tin khác, ngay lập tức AI sẽ nhận định loại thông tin đó cần được ưu tiên và sẽ đề xuất nhiều nội dung tương tự. “Buồng vọng âm” khiến các định kiến và quan điểm sai lệch được củng cố mạnh mẽ hơn. Người dùng sẽ trở nên tự tin hơn về tính đúng đắn của các quan điểm đó, mặc dù thông tin này có thể không chính xác, đi ngược lại đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Đồng thời, các thuật toán AI không chỉ phản ánh lựa chọn ưa thích của người dùng, mà còn có thể bị thao túng bởi các cá nhân hoặc tổ chức có ý đồ xấu. Họ có thể lợi dụng các thuật toán của các trang mạng xã hội đang sử dụng AI để lan truyền thông tin sai lệch, khuếch đại các quan điểm cực đoan và kích động xung đột xã hội.

Ba là, nguy cơ về phát tán, lan truyền thông tin sai lệch, thông tin không chính thống, chưa được xác thực. Gần đây, không ít người dùng các nền tảng mạng xã hội và các trang báo điện tử đã đăng tải nội dung thông tin sai lệch với việc ứng dụng được tạo ra từ AI. Thực tế này cho thấy, AI mà trực tiếp là công cụ Deepfake với những phiên bản ngày càng cao cấp sẽ dấy nên nguy cơ lớn đối với trật tự, an toàn xã hội, an ninh không gian mạng nếu mục tiêu bị giả mạo là các chính trị gia, những người có uy tín trong xã hội. Với sự bùng nổ công nghệ, AI hoàn toàn dễ dàng bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để tạo ra những sản phẩm văn hóa, sản phẩm tinh thần sai trái, phản động, từ đó tạo hiệu ứng xấu, độc trong dư luận xã hội. Các công nghệ như Deepfake và các hệ thống tạo nội dung tự động có thể tạo ra các video, hình ảnh và bài viết giả mạo, làm ảnh hưởng đến nhận thức của người dân về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nguy cơ này đặt ra thách thức không nhỏ cho lực lượng chức năng trong quản lý, phòng ngừa, ngăn chặn.

Bốn là, nguy cơ mất kiểm soát từ chính phủ đối với AI. Nguy cơ mất kiểm soát đối với AI đã được nhiều quốc gia đề cập đến. Tháng 10-2023, tại Hội nghị cấp cao đầu tiên về an toàn AI được tổ chức tại Bletchley Park, Thủ tướng Anh Rishi Sunak đã bày tỏ lo ngại “nhân loại có thể mất hoàn toàn quyền kiểm soát AI”(4) nếu công nghệ này không được giám sát thích hợp, ngay cả khi nó tạo ra những cơ hội mới. Những lo ngại này hoàn toàn có cơ sở bởi: Trước hết, AI có khả năng tự học và cải tiến, khiến việc kiểm soát ngày càng trở nên khó khăn hơn. Các hệ thống AI có thể phát triển khả năng mới mà con người không dự đoán trước được, dẫn đến tình trạng vượt quá tầm kiểm soát. Thứ hai, AI có thể bị lạm dụng bởi các tổ chức và cá nhân có ý đồ xấu, từ việc tấn công mạng, lan truyền thông tin sai lệch đến việc sử dụng trong các hoạt động quân sự và gián điệp. Khi AI trở nên mạnh mẽ hơn, việc ngăn chặn các hành động này trở nên phức tạp và yêu cầu sự hợp tác quốc tế chặt chẽ, điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng thực hiện được. Thứ ba, sự phát triển nhanh chóng của AI đang vượt qua khả năng lập pháp của nhiều chính phủ. Luật pháp và quy định thường chậm và không theo kịp tốc độ tiến bộ công nghệ. Điều này tạo ra lỗ hổng pháp lý mà các công ty và cá nhân có thể lợi dụng để phát triển và triển khai công nghệ AI mà không bị kiểm soát chặt chẽ.

Đối với Việt Nam, nguy cơ trên thực sự hiện hữu khi chúng ta chưa có văn bản quy phạm pháp luật cụ thể nào về AI. Thêm vào đó, việc kiểm soát các công ty công nghệ, đặc biệt là các công ty nước ngoài là rất khó khăn. Việc sửa đổi luật khó theo kịp sự phát triển của công nghệ. Nguy cơ này càng cao hơn khi mà các công ty công nghệ lớn có nguồn lực và sự linh hoạt để phát triển AI mạnh mẽ hơn Nhà nước, điều này không chỉ đúng với một nước đang phát triển như Việt Nam mà ngay cả những nước phát triển cũng phải đối mặt. Theo đó, có thể dẫn đến tình trạng chính phủ phải phụ thuộc vào các công ty công nghệ để triển khai và quản lý AI, làm giảm khả năng tự chủ và kiểm soát. Từ đó có thể đặt ra mối lo ngại về sự suy yếu quyền lực nhà nước trong việc điều tiết và kiểm soát AI.

Năm là, nguy cơ về tư cách pháp nhân của AI. Đây là vấn đề được tranh luận từ rất lâu. AI có tư cách pháp nhân hay không? Nhiều quan điểm cho rằng cần trao tư cách pháp nhân, quyền công dân, quyền tự do… cho AI. Năm 2017, Chính phủ Arab Saudi đã trao quyền công dân cho robot Sophia do David Hanson Jr (một nhà chế tạo robot người Mỹ, đồng thời là người sáng lập và Giám đốc điều hành (CEO) của Hanson Robotics) tạo ra. Sự kiện này tạo tiền lệ và lý do cho hàng loạt quan điểm, ý kiến về cấp quyền công dân cho robot có trí tuệ nhân tạo.

Tuy nhiên, trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, cần nhận thức rõ rằng, AI hay bất cứ sản phẩm công nghệ nào khác đều do con người lập trình, là sản phẩm có nguồn gốc từ quá trình lao động của con người, do đó phục vụ cho mục đích nào đó của chủ thể tạo ra. Cần ý thức rằng, mỗi sản phẩm AI đều mang ý kiến chủ quan và sự sắp đặt của chủ thể tạo ra nó và chủ thể đó phải chịu trách nhiệm pháp lý do những hành vi vi phạm pháp luật mà AI thực hiện.

Cần tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục và nâng cao nhận thức về AI, giúp thế hệ trẻ nhận thức được tầm quan trọng của việc sử dụng AI một cách có trách nhiệm và an toàn _Nguồn: baosonla.org.vn

Một số khuyến nghị góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng  trước những nguy cơ, thách thức từ trí tuệ nhân tạo

Từ những nguy cơ đến từ sự bùng nổ của AI đối với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, cần lưu ý một số nội dung sau:

Một là, tăng cường hợp tác quốc tế về AI. Việt Nam cần chủ động và tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế về AI, đồng thời phát huy vai trò và vị thế quốc gia trong việc thúc đẩy sử dụng AI một cách có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Điều này không chỉ giúp Việt Nam nắm bắt các xu hướng công nghệ mới nhất và học hỏi kinh nghiệm, mà còn đóng góp vào việc xây dựng các quy chuẩn quốc tế về AI. Bằng cách tham gia sâu rộng và tích cực, Việt Nam có thể chia sẻ những kinh nghiệm, đồng thời học hỏi từ các quốc gia tiên tiến khác. Điều này tạo cơ hội để Việt Nam khẳng định vị thế trong cộng đồng quốc tế, thúc đẩy hợp tác và đối thoại nhằm bảo đảm rằng AI được phát triển và sử dụng một cách an toàn, minh bạch và hiệu quả. Hướng tới các quy chuẩn quốc tế về AI cũng giúp Việt Nam bảo đảm công nghệ này mang lại lợi ích toàn diện cho xã hội, thúc đẩy sự phát triển bền vững và giảm thiểu rủi ro tiềm ẩn. Việc này không chỉ là một nhiệm vụ chiến lược, mà còn là cơ hội để Việt Nam tạo dấu ấn trong lĩnh vực công nghệ toàn cầu.

Hai là, bảo đảm sự phát triển và ứng dụng AI một cách có trách nhiệm, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, theo đó cần xây dựng các thiết chế mạnh mẽ và tăng cường quản lý nhà nước đối với các công ty công nghệ, đặc biệt là các công ty nước ngoài. Cần ban hành luật về AI và kịp thời sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành, quy định rõ ràng về trách nhiệm, chế tài và nghĩa vụ của các công ty công nghệ. Các chính sách và pháp luật này nhằm kiểm soát chặt chẽ việc phát triển và ứng dụng AI, bảo đảm rằng các thuật toán được sử dụng để khuyến khích thông tin tích cực, đúng đắn và phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Các công ty công nghệ cần rà soát quy trình của mình để tránh tạo ra kẽ hở để các thế lực thù địch, phản động có thể lợi dụng hòng phát tán thông tin sai lệch. Việc này không chỉ giúp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, mà còn góp phần vào sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước.

Ba là, cần tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục và nâng cao nhận thức về AI. Việc phổ biến kiến thức về AI sẽ giúp người dùng hiểu rõ hơn về công nghệ này, từ đó họ có thể tránh các “buồng vọng âm” và thông tin sai lệch. Các chương trình giáo dục, công tác tuyên truyền cần tập trung vào việc giải thích cách thức hoạt động của các thuật toán AI, những nguy cơ tiềm ẩn của việc tiếp xúc với thông tin được cá nhân hóa quá mức và cách nhận diện thông tin giả mạo liên quan đến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, cần khuyến khích người dùng tiếp cận với các nguồn thông tin đa dạng và đáng tin cậy, đồng thời phát triển kỹ năng tư duy phản biện để họ có thể đánh giá thông tin một cách chính xác. Bằng cách này, người dùng sẽ được trang bị đầy đủ kiến thức để bảo vệ bản thân. Việc tuyên truyền, giáo dục nên được tích hợp vào chương trình giáo dục từ sớm, giúp thế hệ trẻ nhận thức được tầm quan trọng của việc sử dụng AI một cách có trách nhiệm và an toàn.

Bốn là, khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp, công ty và các startup khởi nghiệp về AI. Làm tốt giải pháp này có thể tăng cường sự tự chủ, tránh sự lệ thuộc, mất kiểm soát đối với các công ty công nghệ nước ngoài. Qua đó, gián tiếp tăng cường sức mạnh trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đặc biệt là trên không gian mạng. Chính phủ có thể cung cấp các ưu đãi về thuế, tài chính và hỗ trợ kỹ thuật; đầu tư vào hạ tầng công nghệ, mạng lưới internet tốc độ cao, các cơ sở dữ liệu lớn và hệ thống máy tính mạnh mẽ, để hỗ trợ việc nghiên cứu và triển khai AI cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các startup, nhằm thúc đẩy sáng tạo và ứng dụng AI trong đa dạng các lĩnh vực. Điều này không chỉ giúp tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển, mà còn khuyến khích họ tự chủ trong việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ AI. Bằng cách này, các doanh nghiệp có thể đóng góp vào việc xây dựng một hệ sinh thái AI đa dạng, hướng tới phát triển bền vững, đồng thời bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng bằng cách kiểm soát và thúc đẩy việc sử dụng AI một cách có trách nhiệm, an toàn.

Năm là, cần xây dựng các cơ chế giám sát và kiểm tra chặt chẽ đối với các công ty công nghệ, các tổ chức, cá nhân sử dụng sản phẩm AI. Bảo đảm rằng các công nghệ này không gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền tảng tư tưởng của Đảng và xã hội. Đồng thời, cần thiết kế các cơ chế kiểm tra để bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm trong quản lý dữ liệu và thông tin. Việc này giúp ngăn chặn việc lạm dụng dữ liệu và thông tin để lan truyền các thông tin sai lệch, gây hoang mang dư luận, ảnh hưởng tới nền tảng tư tưởng của Đảng./.

------------------------

(1) Minh Sơn: “Người Việt thiệt hại trung bình gần 18 triệu đồng vì lừa đảo trực tuyến năm 2023”, TTXVN/Vietnam+, ngày 6-1-2024, https://www.vietnamplus.vn/nguoi-viet-thiet-hai-trung-binh-gan-18-trieu-dong-vi-lua-dao-truc-tuyen-nam-2023-post919557.vnp
(2), (3) “8 lý do tôi lo lắng và hy vọng vào thế hệ tương lai”, Bức thư gửi tới trẻ em thế giới của Bà Henrietta Fore, Giám đốc Điều hành UNICEF nhân dịp kỷ niệm 30 năm Công ước Liên hợp quốc về Quyền Trẻ em, UNICEFf, 2019, https://www.unicef.org/vietnam/vi/nh%E1%BB%AFng-c%C3%A2u-chuy%E1%BB%87n/8-l%C3% BD-do-t%C3%B4i-lo-l%E1%BA%AFng-v%C3%A0-hy-v%E1%BB%8Dng-v%C3%A0o-th%E1%BA%BF-h%E1%BB%87-t%C6%B0%C6%A1ng-lai
(4) Lan Phương: “Anh tổ chức Hội nghị Cấp cao đầu tiên trên thế giới về AI”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 1-11-2023, https://dangcongsan.vn/the-gioi/tin-tuc/anh-to-chuc-hoi-nghi-thuong-dinh-toan-cau-ve-tri-tue-nhan-tao-650898.html


Kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng trên không gian mạng

TS NGUYỄN ĐÌNH THUẬN
Hiệu trưởng Trường Chính trị thành phố Đà Nẵng
06:00, ngày 19-08-2024

TCCS - Với sự phát triển của các hình thức truyền thông mới, không gian mạng ngày càng trở thành môi trường quan trọng cung cấp thông tin, qua đó tác động sâu sắc đối với nhận thức, tình cảm, tư tưởng... của người dân. Đồng thời, các vấn nạn như tin giả, tin xấu, tin xuyên tạc... cũng tác động không nhỏ đối với nhận thức xã hội, gây ra nhiều khó khăn, thách thức với các chính đảng cầm quyền trên thế giới. Với cách tiếp cận toàn diện, khoa học, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xây dựng được hệ thống giải pháp thống nhất, hiệu quả đối với công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng trên không gian mạng.

Người dân Trung Quốc tìm hiểu về công nghệ tại triển lãm công nghệ số tại Bắc Kinh (Trung Quốc), ngày 18-7-2023 _Ảnh: THX

Quan điểm của Đảng Cộng sản Trung Quốc về đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng trên không gian mạng

Không gian mạng ngày càng trở thành phương tiện tiếp cận thông tin chủ yếu của người dân Trung Quốc, đặc biệt là thế hệ trẻ. Các luồng thông tin về mọi mặt của đời sống xã hội trên không gian mạng đã và đang tác động trực tiếp đến nhận thức, hành động, định hướng giá trị, quan điểm sống và cả tư tưởng chính trị của người dân Trung Quốc. Những khía cạnh mới của xã hội dẫn đến phát sinh nhiều dòng ý thức khác nhau. Trên không gian mạng tồn tại và phát triển không ít quan điểm đi ngược với tư tưởng chính thống của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong đó, những luồng tư tưởng phản động, thông tin xấu độc nảy sinh cả từ bên trong và bên ngoài. Đảng Cộng sản Trung Quốc nhận định có hai trào lưu chủ yếu mưu toan chống phá Đảng trên không gian mạng:

Thứ nhất, trào lưu tư tưởng gây tác hại trực tiếp, hòng làm xói mòn vị thế của chủ nghĩa Mác - Lê-nin với tư cách là một trụ cột đầu tiên, quan trọng nhất trong hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc bao gồm 6 thành tố (Chủ nghĩa Mác - Lê-nin; Tư tưởng Mao Trạch Đông; Lý luận Đặng Tiểu Bình; Tư tưởng “Ba đại diện” của Giang Trạch Dân; Tư tưởng “Phát triển khoa học” và “xã hội hài hòa” của Hồ Cẩm Đào; và Tư tưởng Tập Cận Bình về xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới, gọi tắt là “Tư tưởng Tập Cận Bình”). Các trào lưu tư tưởng này luôn tìm cơ hội gây ảnh hưởng, ra sức thách thức vai trò chủ đạo của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, công kích, phủ định tính tất yếu về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thể chế chính trị và con đường phát triển chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.

Thứ hai, thông tin bịa đặt, xuyên tạc của các thế lực phản động luôn tìm cách trực tiếp tấn công vào các sự kiện chính trị, các quyết sách chính trị, vấn đề cán bộ lãnh đạo (nhiều nhất là các vụ án, vụ việc liên quan đến cán bộ cấp cao), phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc, phủ nhận vị thế của các đảng phái chính trị dân chủ, xuyên tạc rằng các đảng phái chính trị dân chủ chỉ có vị thế “hình thức” (cho rằng 8 đảng phái chính trị dân chủ thực chất chỉ tồn tại hình thức, không được tham chính sâu rộng). Đối tượng mà các thế lực thù địch tiếp cận là hơn một tỷ người sử dụng internet thường xuyên, qua báo chí ngoài lề (chủ yếu là các báo chí chống phá các thế lực thù địch lập ra từ ngoài lãnh thổ Trung Quốc). Chúng chủ yếu nhắm vào những người dân thường, lực lượng có trình độ thấp, non kém về lập trường và thế hệ trẻ đang trong giai đoạn định hình tư tưởng. Ngoài ra, không ít cư dân mạng vì hoàn cảnh cá nhân, vì tham vọng chính trị hay vì là nạn nhân của các bất công xã hội, đã tự nguyện trở thành “tù nhân” của các dòng tư tưởng tiêu cực và độc hại, một số “tiên phong” tiếp nhận các luồng tư tưởng trên và dùng nó để chống phá tư tưởng, tổ chức của Đảng Cộng sản Trung Quốc (1).

Như vậy, không gian mạng đã và đang trở thành “bộ nguồn” và “bộ khuếch đại” lây lan dư luận tiêu cực, thông tin không chính xác, thúc đẩy truyền bá những tư tưởng sai trái, gia tăng thách thức đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc trong việc định hướng dư luận và truyền bá tư tưởng chính thống. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình từng nhấn mạnh: “Internet giống như con dao hai lưỡi. Một bức ảnh hay, một đoạn video được cập nhật có thể tạo thành một vụ nổ lan truyền trên toàn bộ các phương tiện truyền thông trong vài giờ, có tác động rất lớn đến lĩnh vực dư luận xã hội. Internet có thể được sử dụng cho những việc ích nước, lợi dân. Song, nếu không sử dụng đúng thì có thể gây ra những tác hại khó lường. Vì vậy, Đảng Cộng sản Trung Quốc cần có lập trường rõ ràng, kiên định đường lối chính trị, định hướng dư luận, định hướng giá trị đúng đắn trên không gian mạng(2).

Từ bối cảnh trên, kể từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII (năm 2012) đến nay, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xây dựng và hoàn thiện lý luận, phương án tổ chức toàn diện về quản lý không gian mạng, nhất là quản lý công tác tư tưởng, dư luận trên mạng không gian mạng. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã nhiều lần trực tiếp đề cập đến vấn đề này thông qua các bài phát biểu và bài viết, được thể hiện ở các nội dung chủ yếu như sau:

Một là, cần tăng cường sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đối với công tác an ninh mạng và tin học hóa để bảo đảm sự nghiệp an ninh mạng và quá trình đẩy mạnh tin học hóa, công nghệ hóa luôn đi đúng hướng(3). Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, hệ thống chính trị Trung Quốc, nhất là các cơ quan chịu trách nhiệm trực tiếp, phải kiên quyết thực hành quản lý không gian mạng theo luật, điều hành theo luật, lướt web theo luật. Cần tăng cường quản trị không gian mạng theo pháp luật, tăng cường xây dựng nội dung trực tuyến, tăng cường công khai trực tuyến tích cực, chủ động đi trước để dẫn dắt tư tưởng, không để tình trạng “chạy theo đấu tranh với các thế lực thù địch”, không để tình trạng “thông tin tốt luôn đi sau thông tin xấu của các thế lực thù địch”(4).

Hai là, vì không gian mạng là “ngôi nhà tinh thần” của hàng trăm triệu người hằng ngày, thậm chí hàng tỷ người dùng thường xuyên, cho nên không gian mạng cũng chính là biến số lớn nhất mà Trung Quốc phải đối mặt, một thách thức mà giai đoạn trước không phải đối mặt. Trên “chiến trường” không gian mạng, việc có thể trụ vững và thắng trận hay không có liên quan trực tiếp đến an ninh chính trị của đất nước. Phải coi không gian mạng là một mặt trận chính trong công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc; là nơi phải được cải biến trở thành một môi trường thực sự trong sạch; là nơi tích cực giải thích con đường phát triển của Trung Quốc, tuyên truyền những điều tốt đẹp; là nơi thảo luận về các đặc trưng, bản sắc của Trung Quốc; là nơi toàn dân hiến kế cho sự phát triển quốc gia(5). Từ đó, Trung Quốc tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với công tác tuyên truyền, tư tưởng; đồng thời, tuân thủ rõ ràng sự quản lý của Đảng đối với công tác tuyên truyền, tư tưởng, lấy công tác dư luận xã hội trên không gian mạng làm nhiệm vụ hàng đầu của công tác tuyên truyền và tư tưởng(6).

Ba là, cần chủ động xây dựng hàng rào an ninh mạng quốc gia. Bởi, an ninh mạng tác động tổng thể và sâu rộng đến an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự và các lĩnh vực khác, không có an ninh mạng thì không có an ninh quốc gia, không có ổn định kinh tế - xã hội, khó bảo vệ lợi ích cho đông đảo quần chúng nhân dân. Vì vậy, an ninh mạng được duy trì thông qua sự phối hợp phát triển và bảo mật, nâng cao hệ thống bảo vệ an ninh, đẩy nhanh quá trình nội địa hóa công nghệ thông tin, loại bỏ sự lệ thuộc công nghệ bên ngoài, tăng cường an ninh chuỗi cung ứng, tăng cường bảo vệ thông tin cá nhân và dữ liệu quan trọng, nghiêm khắc trấn áp tội phạm trên không gian mạng, tăng cường xây dựng ngành an ninh mạng, nhân lực và kỷ luật, kiên quyết xây dựng rào cản mới cho an ninh mạng quốc gia, bảo vệ hiệu quả an ninh mạng quốc gia và lợi ích của quốc gia - dân tộc(7).

Bốn là, thực hiện sự thống nhất, cộng hưởng trên không gian mạng và môi trường xã hội thực tế, điều mà Đảng Cộng sản Trung Quốc gọi là xây dựng “vòng tròn đồng tâm trên mạng và trên thực tế”. Để xây dựng “vòng tròn đồng tâm” cần tập hợp sự đồng thuận xã hội, củng cố nền tảng tư tưởng cho sự thống nhất của toàn Đảng và nhân dân cả nước. Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng thẳng thắn chỉ ra rằng, sự phát triển của internet là một bước tiến lớn về công nghệ, nhưng cũng là một thách thức lớn trong khâu quản lý. Vì vậy, mỗi cấp ủy và đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp phải có trách nhiệm nâng cao năng lực và trình độ quản trị trên không gian mạng.  

Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung Nguyễn Trọng Nghĩa thăm và làm việc với Đài Phát thanh và Truyền hình Trung ương Trung Quốc _Ảnh: TTXVN

Phương thức đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng trên không gian mạng của Đảng Cộng sản Trung Quốc

Trước hết, theo quan điểm của Đảng Cộng sản Trung Quốc, để chiến thắng trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng trên không gian mạng, phải nâng cao khả năng quản lý toàn diện, hình thành cơ cấu quản trị đồng bộ, có sự tham gia của nhiều bên, như Đảng, chính quyền, doanh nghiệp và người dùng. Sự tham gia đó được thực hiện trên nhiều phương diện, như kinh tế, pháp lý và công nghệ,...

Từ năm 2011, Chính phủ Trung Quốc thành lập Cục quản lý mạng, chịu sự lãnh đạo toàn diện của Ủy ban Trung ương về các vấn đề không gian mạng, một cơ quan trực thuộc Trung ương Đảng. Đến năm 2014, Chính phủ Trung Quốc đã cơ cấu lại Cục Quản lý mạng thành Văn phòng Thông tin internet quốc gia. Văn phòng là một cơ quan hành chính chịu trách nhiệm quản lý nội dung thông tin internet quốc gia; đồng thời giám sát, quản lý việc thực thi pháp luật các vấn đề về internet. Đối với sự lãnh đạo của Đảng, tháng 3-2018, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thống nhất đổi Tiểu Tổ chỉ đạo an ninh mạng và tin học Trung ương thành Ủy ban chỉ đạo an ninh mạng và tin học Trung ương nhằm tăng cường sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Cho đến nay, Ủy ban chỉ đạo được hình thành tương ứng với các cấp trung ương, tỉnh, phó tỉnh và huyện. Đảng Cộng sản Trung Quốc yêu cầu cán bộ lãnh đạo các cấp, nhất là cán bộ cấp cao phải chủ động thích ứng với yêu cầu tin học hóa, tăng cường tư duy và hiểu biết sâu rộng về internet, không ngừng nâng cao năng lực nắm bắt quy luật vận hành internet, chủ động định hướng dư luận trên mạng, kiểm soát sự phát triển của tin học hóa, bảo đảm an ninh mạng(8).

Để tiếp tục hoàn thiện thể chế lãnh đạo toàn diện công tác tư tưởng trên không gian mạng, năm 2019, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định ban hành “Quy định về công tác tuyên truyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc”. Trong đó, đưa quản lý internet là một trong những nội dung quản lý tuyên truyền của Đảng nhằm thực hiện nhiệm vụ chung “một giương cao”, “hai củng cố” và “ba xây dựng”(9).

Về xây dựng các thể chế luật pháp, ban đầu Chính phủ Trung Quốc chỉ ban hành Quy định bảo vệ an ninh hệ thống thông tin máy tính, trong đó trách nhiệm bảo vệ an ninh trên không gian mạng là của Bộ Công an. Đến năm 1996, Trung Quốc mở rộng việc quản lý, kiểm soát không gian mạng khi ban hành Quy định tạm thời về quản lý kết nối quốc tế của mạng thông tin máy tính. Một trong những nội dung của quy định là các nhà cung cấp dịch vụ internet phải được cấp phép và lưu lượng truy cập internet phải đi qua 4 nhà cung cấp internet chính của Trung Quốc là ChinaNet, GBNet, CERNET hoặc CSTNET. Ngay từ năm 2000, Chính phủ Trung Quốc đã ban hành Quy định số 292, theo đó các trang web có trụ sở tại Trung Quốc không thể liên kết với các trang web tin tức nước ngoài hoặc phân phối tin tức từ các phương tiện truyền thông nước ngoài nếu không có sự cho phép của cơ quan nhà nước. Quy định này nêu rõ, các nhà cung cấp nội dung chịu trách nhiệm bảo đảm tính hợp pháp của bất kỳ thông tin nào được phổ biến thông qua các dịch vụ của họ. Năm 2017, sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin đã tác động đến nền tảng tư tưởng, cấu trúc xã hội, cách thức quản trị quốc gia... Quốc hội Trung Quốc đã ban hành Luật An ninh mạng. Đây là luật đầu tiên điều chỉnh một cách toàn diện vấn đề quản lý an ninh mạng. Trong đó, Điều 12 quy định cá nhân, tổ chức sử dụng không gian mạng phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật, giữ gìn trật tự công cộng, tôn trọng đạo đức xã hội; không được gây nguy hiểm cho an ninh mạng, không được sử dụng không gian mạng để tham gia vào các hoạt động gây nguy hiểm cho an ninh, danh dự và lợi ích quốc gia; không được kích động lật đổ chủ quyền, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa, kích động ly khai, phá vỡ đoàn kết dân tộc, cổ xúy chủ nghĩa khủng bố hoặc chủ nghĩa cực đoan, cổ xúy hận thù dân tộc và phân biệt đối xử dân tộc, truyền bá thông tin bạo lực, khiêu dâm, tạo hoặc phổ biến thông tin sai lệch nhằm phá hoại nền kinh tế - xã hội hoặc thông tin xâm phạm uy tín, quyền riêng tư, quyền sở hữu trí tuệ hoặc các quyền và lợi ích hợp pháp khác của người khác. Đến năm 2021, Quốc hội Trung Quốc tiếp tục ban hành “Luật Bảo mật dữ liệu”, “Luật Bảo vệ thông tin cá nhân”,... để điều chỉnh hoạt động xử lý dữ liệu mạng và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trên không gian mạng(10).

Văn phòng Thông tin internet quốc gia và các bộ, ngành trực thuộc Chính phủ Trung Quốc đã lần lượt ban hành các quy định và biện pháp nhằm cụ thể hóa Luật An ninh mạng(11). Đặc biệt, “Quy định về quản lý sinh thái nội dung thông tin mạng” (năm 2019) do Văn phòng Thông tin internet quốc gia ban hành, xác định lấy việc trau dồi và thực hành các giá trị cốt lõi xã hội chủ nghĩa và xây dựng hệ sinh thái không gian mạng tốt làm mục tiêu cơ bản, lấy nội dung thông tin làm đối tượng quản trị chính và thúc đẩy hơn nữa việc cải tiến, hoàn thiện hệ thống quản trị mạng toàn diện. Gần đây nhất, tháng 10 năm 2023, Thủ tướng Lý Cường ký ban hành “Quy định về bảo vệ người chưa thành niên trên internet” để tạo ra một môi trường trực tuyến có lợi cho sức khỏe thể chất và tinh thần của người thành niên và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên(12).

Thứ hai, để xác định rõ đối tượng, khu vực trên không gian mạng thường gây tác động tiêu cực tới các vấn đề về tư tưởng, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xác định nhiệm vụ cụ thể trong giải quyết và đối phó đối với từng khu vực trên mặt trận tư tưởng. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình chỉ rõ: Lĩnh vực tư tưởng và dư luận nói chung có ba khu vực: đỏ, đen và xám. Trong số đó, vùng màu đỏ là nơi người sử dụng mạng ủng hộ và tuân thủ chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Quốc. Đây là vùng nhất định phải duy trì, bảo vệ và lan tỏa. Vùng màu đen chủ yếu là thông tin, dư luận tiêu cực nên phải kiên quyết kiểm soát nó, thực hiện bao vây, cô lập sự lan tỏa của nó và dần dần thúc đẩy nó thay đổi sang các màu sáng hơn. Tại vùng màu xám, cần chủ động tích cực đấu tranh mạnh mẽ để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi thành vùng màu đỏ và ngăn không cho nó thoái hóa thành vùng màu đen(13). Với hai vùng có màu tiêu cực, cần tích cực thu hút người sử dụng mạng bằng những chính sách và phương pháp mới, như thông qua thiết lập các kênh liên lạc thường xuyên, tăng cường tương tác trực tuyến và trực tiếp, từng bước tuyên truyền, nâng cao nhận thức chính trị để người sử dụng trong từng khu vực tự hình thành quan điểm tích cực, góp phần thanh lọc không gian mạng.

Từ việc xác định “vùng tư tưởng” trên, Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ đạo đội ngũ cán bộ, đảng viên chịu trách nhiệm công tác giám sát trên không gian mạng, bỏ thói quen phán xét chỉ bằng kinh nghiệm và trực giác trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Cán bộ phải thu thập được thông tin từ quá trình lao động, sản xuất và vận hành đời sống của người dân trên mọi lĩnh vực. Từ đó, nắm bắt kịp thời dư luận, tình hình sự việc một cách toàn diện, hướng tới việc đưa ra các quyết định, dự đoán khoa học và chính xác hơn về các diễn biến trên không gian mạng. 

Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo các ngành quản lý công tác tư tưởng và tuyên truyền các cấp phải tích cực nghiên cứu, xây dựng hệ thống giám sát tư tưởng, dư luận xã hội trên không gian mạng, để công tác giám sát tư tưởng và dư luận xã hội trên không gian mạng được bao quát toàn diện; đặc biệt, tăng cường thu thập ý kiến quần chúng dựa trên các phương tiện truyền thông xã hội mới, phổ biến, như nền tảng Weibo, Wechat; xây dựng một hệ thống kiểm soát và phòng, chống các quan điểm sai trái, thù địch một cách toàn diện; sử dụng các biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao khả năng phát hiện, theo dõi, ngăn chặn, xóa kịp thời nhất các thông tin cổ xúy tư tưởng sai trái; khuyến khích người sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội phản ánh thông tin sai trái, thù địch bằng các hình thức khen thưởng; thực hiện cơ chế giám sát hiệu quả các trang web, blog, diễn đàn và tài khoản công cộng; tăng cường chỉ đạo việc biên soạn các bài báo lý luận, chuyên khảo lý luận, văn học, điện ảnh, truyền hình mang tính tích cực để “đẩy có chủ đích” vào các nền tảng mạng xã hội và các kênh truyền thông thu hút nhiều người dùng.

Thứ ba, chủ động đưa tiếng nói của Đảng và Nhà nước Trung Quốc lên không gian mạng nhằm mục tiêu đề cao vai trò công tác định hướng tư tưởng, công tác tuyên truyền, giáo dục lý tưởng, niềm tin, tích cực tu dưỡng và thực hành các giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội. Nổi bật là, Đảng Cộng sản Trung Quốc tổ chức các hoạt động giáo dục, học tập sâu rộng, như Hội nghị phát động sâu rộng việc giáo dục lịch sử Đảng (năm 2021) đã tạo ra bầu không khí sôi nổi trong việc nghiên cứu lịch sử Đảng và lịch sử dân tộc, tôn vinh các anh hùng và liệt sĩ, tổng kết kinh nghiệm lịch sử, nêu bật những thành tựu của Đảng Cộng sản Trung Quốc(14)... nhằm góp phần dọn sạch hiện tượng “ô nhiễm tư tưởng” trên không gian mạng. Ngoài ra, trong công tác thông tin đối ngoại, các phương tiện truyền thông xã hội tập trung vào việc thúc đẩy xây dựng năng lực truyền thông quốc tế, nâng cao sức mạnh mềm về văn hóa, khoa học - công nghệ, giáo dục... của Trung Quốc với thế giới.

Một số gợi mở từ phương thức đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng trên không gian mạng của Trung Quốc

Trung Quốc đã xây dựng một nền tảng lý luận và quan điểm về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên không gian mạng. Nền tảng lý luận đó được Đảng Cộng sản Trung Quốc đánh giá là một phần quan trọng trong Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới. Coi đó như một bản tóm tắt lý thuyết về kinh nghiệm thực tiễn của Đảng trong quản lý internet, quản lý không gian mạng và hướng dẫn hành động cho sự phát triển của internet(15). Trung Quốc không chỉ đề cao vai trò của không gian mạng đối với phát triển kinh tế - xã hội, mà còn trực tiếp tác động đến công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đến nền tảng tư tưởng của toàn xã hội và ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.

Từ kinh nghiệm của Trung Quốc có thể gợi mở một số điều đáng suy ngẫm: tiếp tục nghiên cứu, bổ sung làm rõ, đặc biệt là những nghiên cứu mang tính định lượng về tác động của không gian mạng đối với người sử dụng trên các vấn đề tư tưởng, lối sống; dự báo những thay đổi và tác động của không gian mạng đối với nhận thức của xã hội cũng như tác động tới nền tảng tư tưởng của Đảng; nâng cấp tổng thể mô hình tổ chức, công nghệ, trách nhiệm của cơ quan quản lý internet quốc gia một cách tập trung, thống nhất, tránh sự chồng chéo chức năng nhiệm vụ; phát động chiến dịch toàn dân sử dụng internet lành mạnh, có sàng lọc kỹ về thông tin, thực sự khoa học; thúc đẩy nhận thức một cách tổng thể về tính nguy hại thực sự nếu không kiểm soát tốt mạng xã hội, không sử dụng khôn ngoan mạng xã hội. Từ đó, phát triển và hình thành một hệ thống quan điểm chiến lược về quản trị không gian mạng trong kỷ nguyên chuyển đổi số... Cần tiếp tục nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện liên tục hệ thống pháp luật về không gian mạng, bảo đảm sự tương thích với pháp luật về an ninh mạng. Đặc biệt, cần xác định rõ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng là công việc hằng ngày, lâu dài, không chỉ là một chiến dịch rầm rộ ngày một ngày hai; không chỉ là công việc của riêng các nhà nghiên cứu và các cơ quan chức năng, mà cần sự tiếp sức, hỗ trợ về cơ chế một cách đầy đủ của Đảng và sự vào cuộc chủ động bằng lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội của toàn dân./.

--------------------------

(1) 网络意识形态负面营销的危害及应对, (Tạm dịch: Tác hại và các biện pháp đối phó với tiếp thị tiêu cực của hệ tư tưởng internet), Tân Hoa xã, ngày 11-8-2016,   http://www.xinhuanet.com/politics/2016-08/11/c_129222606.htm
(2)   中国网络媒体10年发展成就综述,  (Tạm dịch: Tóm tắt thành tựu phát triển 10 năm của phương tiện truyền thông trực tuyến của Trung Quốc), Tạp chí Cầu thị, ngày 18-7-2023, http://www.qstheory.cn/qshyjx/2023-07/18/c_1129755026.htm
(3) “十个坚持”指明网信工作方向, (Tạm dịch: “Mười kiên trì” chỉ ra phương hướng hoạt động của thông tin mạng”, ngày 21-7-2023, http://politics.people.com.cn/n1/2023/0721/c1001-40040850.html
(4)   “坚决打赢网络意识形态斗争”——学习习近平总书记相关重要论述, (Tạm dịch: “Kiên quyết giành chiến thắng trong cuộc đấu tranh tư tưởng trên internet”: Nghiên cứu các bài phát biểu quan trọng của Tổng Bí thư Tập Cận Bình), ngày 10-6-2022, http://fgw.pds.gov.cn/contents/22290/497167.html
(5)  牢牢掌握网络意识形态工作主动权,  (Tạm dịch: Nắm chắc thế chủ động trong công tác mạng lưới tư tưởng), Tạp chí Cầu Thị, ngày 12-2-2019, http://www.qstheory.cn/dukan/hqwg/2019-02/12/c_1124100664.htm
(6)  “坚决打赢网络意识形态斗争”——学习习近平总书记相关重要论述, (Tạm dịch: “Kiên quyết chiến thắng cuộc đấu tranh tư tưởng trên internet” - Nghiên cứu các bài phát biểu quan trọng của Tổng Bí thư Tập Cận Bình), ngày 10-6-2022, http://fgw.pds.gov.cn/contents/22290/497167.html
(7) “十个坚持”指明网信工作方向, (Tạm dịch: “Mười kiên trì” chỉ ra phương hướng hoạt động của thông tin mạng), ngày 21-7-2023, https://www.cac.gov.cn/2023-07/21/c_1691590708022835.htm
(8) 坚持网信事业正确政治方向——五论贯彻习近平总书记全国网信工作会议重要讲话, (Tạm dịch: Tuân thủ định hướng chính trị đúng đắn của ngành thông tin internet - Năm cuộc thảo luận về việc thực hiện Bài phát biểu quan trọng của Tổng Bí thư Tập Cận Bình tại Hội nghị Công tác Thông tin Internet quốc gia), ngày 25-4-2018,   https://www.gov.cn/xinwen/2018-04/25/content_5285840.htm
(9) Phương châm đó bao gồm: giương cao ngọn cờ vĩ đại chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc; củng cố lập trường chỉ đạo của chủ nghĩa Mác trên lĩnh vực tư tưởng, củng cố nền tảng tư tưởng chung cho sự đoàn kết và đấu tranh của toàn đảng và nhân dân cả nước, xây dựng hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa gắn kết và lãnh đạo vững chắc, xây dựng nền văn minh tinh thần xã hội chủ nghĩa có sức sống và sức sáng tạo mạnh mẽ, xây dựng sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc có sức hấp dẫn và ảnh hưởng mạnh mẽ.
(10)  牢牢掌握网络意识形态工作主导权,  (Tạm dịch: Nắm chắc ưu thế của công tác tư tưởng mạng), ngày   23-12-2022,   http://dangjian.people.com.cn/n1/2022/1223/c117092-32592275.html
(11) Như: Quy định quản lý dịch vụ thông tin, tin tức trên internet (năm 2017); Quy định về thủ tục thi hành án hành chính về quản lý nội dung thông tin trên internet (năm 2017); Các biện pháp đánh giá an ninh mạng (năm 2019); Các biện pháp đánh giá bảo mật dịch vụ điện toán đám mây
(12)  司法部、国家网信办有关负责人就 “未成年 人网络保护条例” 答记者问, (Tạm dịch: Bộ Tư pháp và Cục Quản lý không gian mạng Trung Quốc đã trả lời câu hỏi của phóng viên về “Quy định bảo vệ người thành niên trên internet”), ngày 24-10-2023, https://www.moj.gov.cn/pub/sfbgw/zcjd/202310/t20231024_488321.html
(13)  新时代网络意识形态斗争的根本遵循, (Tạm dịch: Các nguyên tắc cơ bản của cuộc đấu tranh tư tưởng Internet trong kỷ nguyên mới), ngày 6-3-2021, http://www.china.com.cn/opinion2020/2021-03/06/content_77279526.shtml
(14) 中国共产党反对历史虚无主义的实践与经验, (Tạm dịch: Thực tiễn và kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc chống lại chủ nghĩa hư vô lịch sử), ngày 6-8-2022, http://www.rmlt.com.cn/2022/0806/653475.shtml
(15)“习近平总书记关于网络强国的重要思想概论”出版发行, (Tạm dịch: Lời giới thiệu của Tổng Bí thư Tập Cận Bình về những tư tưởng quan trọng của một quốc gia mạng lưới hùng mạnh), ngày 12-7-2023, http://ztjy.people.cn/n1/2023/0712/c457340-40033542.html


Chủ tịch Hồ Chí Minh bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin và đấu tranh với những tư tưởng phản mác-xít

TS LÊ THỊ CHIÊN
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
13:33, ngày 12-08-2024

TCCS - Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam, vận dụng sáng tạo học thuyết này vào thực tiễn cách mạng nước ta, mà còn tích cực đấu tranh chống những tư tưởng phản mác-xít để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Tinh thần đó của Người đã tiếp tục cổ vũ, khích lệ chúng ta trong công cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong bối cảnh hiện nay.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng vững chắc cho việc xây dựng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin và đấu tranh với những tư tưởng phản mác-xít

Có thể khẳng định, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh chính thức đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào năm 1920 khi Người đọc bản “Sơ thảo Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lê-nin. Luận cương của V.I. Lê-nin đã bàn đến dân tộc, thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc - những vấn đề có liên quan trực tiếp đến cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ; trong đó, có một luận điểm rất quan trọng nói về con đường phát triển của các nước thuộc địa, phụ thuộc như Việt Nam: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô-viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”(1).

Nguyễn Ái Quốc đến Petrograd, tháng 6-1923 (tranh sơn dầu của họa sĩ Hồ Thọ) _Nguồn: Nhà xuất bản Mỹ thuật

Có thể nói, luận điểm này của V.I. Lê-nin đã giải tỏa những trăn trở bấy lâu của Nguyễn Ái Quốc về con đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Khi nói về điều này, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!””(2). Như vậy, hoàn toàn có cơ sở để khẳng định, chính “Sơ thảo Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lê-nin đã tạo ra bước ngoặt căn bản về chất trong sự phát triển nhận thức, tư tưởng và lập trường cách mạng của Nguyễn Ái Quốc: từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lê-nin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản. Qua đó, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cách mạng chân chính cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc - con đường cách mạng vô sản. Từ đây, Nguyễn Ái Quốc đã đi theo V.I. Lê-nin, đi theo Quốc tế III và Người khẳng định một cách chắc chắn rằng: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(3).

Từ việc đi theo chủ nghĩa Lê-nin, Nguyễn Ái Quốc còn tích cực truyền bá chủ nghĩa ấy vào Việt Nam, đầu tiên là thông qua tờ báo Thanh niên (ra đời năm 1925). Người không chỉ mở lớp đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ cốt cán, mà còn trực tiếp truyền thụ những nội dung về chủ nghĩa Mác - Lê-nin; bởi vì, theo Người, “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”(4). Hơn ai hết, Nguyễn Ái Quốc là người rất hiểu giá trị của chủ nghĩa Mác - Lê-nin với cách mạng Việt Nam nên Người luôn kiên định, vững vàng trong việc bảo vệ, phát triển học thuyết ấy: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”(5).

Những đánh giá của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh về vai trò của chủ nghĩa Mác - Lê-nin với cách mạng Việt Nam không mang tính chủ quan, mà hoàn toàn khách quan, bởi xuất phát từ thực tiễn phát triển cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin với tính cách là lý luận khoa học, cách mạng, vũ khí sắc bén của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế khi được truyền bá vào Việt Nam đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách mạng; đồng thời, tạo ra bước phát triển về nhận thức, tư tưởng và quan trọng hơn, đã tạo ra một đội ngũ cán bộ cách mạng được trang bị lý luận tiên tiến. Do đó, trong quá trình lãnh đạo cách mạng sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định, vững vàng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, coi đó là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, là “kim chỉ nam” cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ kiên định, vững vàng với thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mà còn vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết này vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Trong “Sơ thảo Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa”, V.I. Lê-nin cho rằng, các nước thuộc địa thường là nước nghèo nàn, lạc hậu, đang bị các nước tư bản nô dịch, thống trị. Do đó, giai cấp vô sản ở chính quốc phải ủng hộ tích cực nhất phong trào giải phóng của các dân tộc thuộc địa. Bằng việc nghiên cứu rất kỹ lưỡng tình hình các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã phát triển hơn nữa quan điểm của V.I. Lê-nin về vấn đề này, khi khẳng định cách mạng ở các nước thuộc địa có thể tiến hành trước ở các nước chính quốc, và đến lượt mình sẽ có thể giúp đỡ cách mạng ở các nước chính quốc tiến lên. Đây là sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc khi vận dụng quan điểm của V.I. Lê-nin về vai trò của cách mạng ở các nước thuộc địa so với cách mạng ở chính quốc. Nhận định về điều này, Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Luận điểm của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh mới mẻ đến kỳ lạ,... nó nằm trong dòng sáng tạo cách mạng của những con người mà cống hiến lý luận và sự nghiệp đấu tranh vạch đường cho thời đại”(6). Ngoài ra, tư tưởng về khả năng đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa của V.I. Lê-nin (bỏ qua gián tiếp) đã được Nguyễn Ái Quốc phát triển thành tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và ngày nay, tư tưởng ấy vẫn là “kim chỉ nam” cho cách mạng nước ta.

Khi xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, mặc dù ở thời điểm chủ nghĩa xã hội đang hiển hiện ở Liên Xô và các nước Đông Âu, nhưng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không thể áp dụng một cách máy móc vào thực tiễn Việt Nam; bởi lẽ: “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác”(7). Với tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng cần học tập kinh nghiệm của các nước một cách sáng tạo và vận dụng linh hoạt cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Người chỉ rõ: “Phải học tập kinh nghiệm các nước anh em và áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta”(8).

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quán triệt rất sâu sắc lời chỉ dạy của Ph. Ăng-ghen khi vận dụng chủ nghĩa Mác vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Theo Ph. Ăng-ghen, học thuyết của Mác là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc. Tư tưởng về con đường phát triển của cách mạng Việt Nam là quá độ từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, có trình độ phát triển nghèo nàn, lạc hậu đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng cách bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; hay độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội chính là những dẫn chứng thuyết phục cho sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, làm cho học thuyết ấy được nảy nở, phát triển trên cơ sở vận dụng phù hợp với điều kiện của một nước phương Đông như Việt Nam.

Là người quán triệt sâu sắc phương pháp luận duy vật biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán rất nghiêm khắc cả hai khuynh hướng sai lầm khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn. Đó là “chủ nghĩa giáo điều” và “chủ nghĩa xét lại”. Người chỉ rõ: “Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều. Nhưng nếu quá nhấn mạnh đặc điểm dân tộc để phủ nhận giá trị phổ biến của những kinh nghiệm lớn, cơ bản của các nước anh em, thì sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng của chủ nghĩa xét lại”(9). Vì thế, khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn, Người luôn yêu cầu vừa coi trọng việc học tập, nghiên cứu lý luận, vừa gắn lý luận với thực tiễn và phải khắc phục bệnh giáo điều, đề phòng chủ nghĩa xét lại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với những tư tưởng phi mác-xít để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin

Không chỉ thấm nhuần, kiên định vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh còn kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng phi mác-xít để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người am hiểu hơn ai hết giá trị của những quan điểm về dân tộc và thuộc địa mà V.I. Lê-nin đã đưa ra, nên khi đi theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Người cũng đi theo Quốc tế III. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy sự phức tạp, nguy hiểm của những tư tưởng cơ hội, xét lại, dân túy xuất hiện ở Nga những năm sau Cách mạng Tháng Mười, nên Người đã luôn nêu cao tinh thần “tiến công mạnh mẽ những kẻ chống lại Lê-nin và Quốc tế thứ ba”. Là thành viên của Quốc tế Cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh “không chỉ tranh luận trong chi bộ”, mà còn đi đến các chi bộ khác để đặt câu hỏi: “Nếu các đồng chí không lên án chủ nghĩa thực dân, nếu các đồng chí không đoàn kết với các dân tộc thuộc địa, thì các đồng chí làm thứ cách mạng gì?”(10).

Một trong những tư tưởng phi mác-xít mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đấu tranh một cách trực diện, kiên quyết chính là tư tưởng của những phần tử tờ-rốt-xkít. Với nhiều năm kinh nghiệm hoạt động quốc tế và sự nhạy bén về chính trị, ngay từ sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận rõ bản chất và mưu đồ của các phần tử tờ-rốt-xkít; bởi, bọn họ luôn có tư tưởng phá hoại phong trào cách mạng ở nhiều nước, như Liên Xô, Nhật Bản, Trung Quốc, Tây Ban Nha... và cài cắm các phần tử chống phá vào trong nội bộ tổ chức Quốc tế Cộng sản. Ngày 23-6-1939, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Về chủ nghĩa Tờ-rốt-xkít” đăng trên báo Notre Voix để vạch trần bản chất của các phần tử tờ-rốt-xkít. Người viết: “Bọn tờ-rốt-xkít không chỉ là kẻ thù của chủ nghĩa cộng sản, mà còn là kẻ thù của nền dân chủ và tiến bộ. Đó là bọn phản bội và mật thám tồi tệ nhất”(11). Người còn chỉ rõ thêm: “Trong tất cả các nước, bọn tờ-rốt-xkít đều dùng những tên gọi hoa mỹ để che giấu những công việc kẻ cướp bẩn thỉu của chúng”(12). Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đấu tranh một cách trực diện với những phần tử tờ-rốt-xkít bằng những ngôn ngữ rất gay gắt. Điều đó cho thấy tinh thần đấu tranh không khoan nhượng của người cộng sản kiên trung với những tư tưởng phi mác-xít.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh với chủ nghĩa Tờ-rốt-xkít trên thế giới,  mà còn kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng tờ-rốt-xkít ở Việt Nam. Trong giai đoạn 1936 - 1939, trước tình trạng những phần tử tờ-rốt-xkít công khai phá hoại đường lối của Đảng Cộng sản Đông Dương, lôi kéo, lừa bịp nhân dân bằng những lời lẽ hoa mỹ; từ nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đề nghị các đồng chí trong Đảng cảnh giác đối với những phần tử này: “Đối với bọn tờrốtxkít, không thể có thoả hiệp nào, một nhượng bộ nào. Phải dùng mọi cách để lột mặt nạ chúng làm tay sai cho chủ nghĩa phát xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị”(13). Như vậy, nhóm tờ-rốt-xkít không chỉ phá hoại nền hòa bình, dân chủ trên thế giới, mà còn là tay sai cho chủ nghĩa phát xít. Điều này đi ngược lại với lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản mà chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã gây dựng, nên Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên quyết cho rằng không thể có một sự “thỏa hiệp” hay “nhượng bộ” nào!

Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn cảnh giác và đấu tranh không khoan nhượng với khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa để bảo vệ thành quả cách mạng cũng như bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Tại Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và công nhân các nước xã hội chủ nghĩa (tháng 11-1957), Người nhắc lại tinh thần của Bản Tuyên bố của Hội nghị: “Chúng ta cần phải tăng cường giáo dục theo tinh thần chủ nghĩa Mác - Lênin và đấu tranh chống những khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa như chủ nghĩa dân tộc tư sản, chủ nghĩa sôvanh, chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại, đặc biệt là chủ nghĩa xét lại”(14). Đây chính là lời cảnh tỉnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh với những người cộng sản, nhằm giữ vững lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và nêu cao tinh thần cảnh giác trước sự chống phá của những khuynh hướng tư tưởng phi mác-xít lúc bấy giờ.

Sau này, khi nói về nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta luôn luôn đứng vững trên lập trường giai cấp vô sản, tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp và của nhân dân, biết vận dụng lý luận Mác - Lênin vào tình hình thực tế của nước ta và đề ra đường lối, chính sách đúng đắn. Đảng ta không ngừng đấu tranh chống những khuynh hướng cải lương của giai cấp tư sản và những khuynh hướng manh động của tầng lớp tiểu tư sản trong phong trào dân tộc; chống luận điệu “tả” của bọn tơrốtxkít trong phong trào công nhân; chống những khuynh hướng hữu và “tả” trong Đảng khi quy định và chấp hành chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng ở mỗi thời kỳ”(15). Có thể thấy rõ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra hai yếu tố cơ bản mang lại những thắng lợi của cách mạng Việt Nam: Đó là luôn vững vàng với lập trường giai cấp vô sản, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng; đồng thời, đấu tranh không khoan nhượng với những khuynh hướng tư tưởng phi mác-xít, như khuynh hướng cải lương của giai cấp tư sản, khuynh hướng manh động của tầng lớp tiểu tư sản và các khuynh hướng cơ hội, xét lại khác... Đây là nhận định vừa mang tính lý luận, vừa mang tính tổng kết thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giúp sự nghiệp cách mạng nước ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức để đạt được những thành quả to lớn ở thế kỷ XX.

Có thể khẳng định, việc kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng như kiên quyết đấu tranh chống những khuynh hướng tư tưởng phi mác-xít không chỉ nằm trong quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn được Người thực hành một cách nghiêm túc, thường xuyên trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng. Do đó, ở Người, lý luận và thực tiễn, “tri” và “hành” có sự thống nhất với nhau rất đặc sắc.

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì, phối hợp cùng Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương, Tạp chí Cộng sản, Báo Nhân dân, Đài Truyền hình Việt Nam và Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức họp báo phát động “Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ tư, năm 2024” _Nguồn: dangcongsan.vn

Hiện nay, một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác xây dựng Đảng là bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đây được coi là nhiệm vụ cơ bản, xuyên suốt, sống còn, liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ ta. Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đồng thời kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng phản mác-xít có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân ta trong thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị khóa XII, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Điều đó nhắc nhở mỗi chúng ta phải thực hiện tốt cả hai nhiệm vụ: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng để tiếp tục tuyên truyền, lan tỏa những nội dung, giá trị của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đồng thời, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phản bác hiệu quả các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị ở trong nước và nước ngoài. “Bảo vệ” và “đấu tranh” có mối quan hệ biện chứng với nhau, có sự tác động qua lại nhau; bởi lẽ, muốn bảo vệ tốt phải đấu tranh hiệu quả và ngược lại, đấu tranh hiệu quả góp phần bảo vệ tốt hơn, vững chắc hơn.

Trong những năm qua, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường với sự leo thang của các cuộc xung đột vũ trang, quân sự trên quy mô lớn. Ở trong nước, bên cạnh những thành tựu to lớn, tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội còn chậm, chưa vững chắc; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ còn nhiều diễn biến phức tạp... Điều này đòi hỏi chúng ta tiếp tục kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam; đồng thời, thường xuyên đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Điều này cũng phù hợp với phương châm kết hợp hài hòa giữa “xây” và “chống” mà Đảng ta đã xác định rõ trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng giai đoạn hiện nay.

Là người cộng sản kiên trung, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quán triệt rất sâu sắc di huấn của V.I. Lê-nin: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”(16). Sự kiên định, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và sự kiên quyết, kiên trì đấu tranh với những tư tưởng phản mác-xít của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ cho chúng ta một phương pháp luận quan trọng, mà còn tiếp tục cổ vũ, động viên, khích lệ chúng ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giai đoạn hiện nay./.

-----------------------

(1) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 41, tr. 295
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 562
(3), (4) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 2, tr. 289
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 563
(6) Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh - chân dung một con người, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1996, tr. 26
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 391
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 92
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 97 - 98
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 585
(11), (15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 154
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3,  tr. 167
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 189 - 190
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 416
(16) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 4,  tr. 232


Đẩy mạnh đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong quân đội nhân dân Việt Nam qua tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

TRUNG TƯỚNG NGUYỄN VĂN GẤU
Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang, nguyên Ủy viên Quân ủy Trung ương, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam
13:45, ngày 27-07-2024

TCCS - Tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” đi sâu vào một số vấn đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và thể hiện ở tầm cao trí tuệ với nhiều cách tiếp cận khác nhau, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu rất công phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học. Vì vậy, việc quán triệt và thực hiện quan điểm này có ý nghĩa rất quan trọng, là nền tảng nhận thức tư tưởng và kim chỉ nam để chỉ đạo, định hướng cho các hoạt động nâng cao hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong tình hình mới.

Tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” bao gồm 29 bài viết, bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Nội dung xuyên suốt của tác phẩm là sự phân tích biện chứng, lý giải thấu đáo những câu hỏi lớn về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thể hiện rõ và làm sâu sắc thêm bản chất, giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội trên các bình diện chính trị, kinh tế, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,… giúp cho người đọc hiểu, vững tin vào xã hội xã hội chủ nghĩa bền vững và tốt đẹp mà nhân loại và nhân dân ta đang hướng tới. Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội. Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu phấn đấu(1). Tác phẩm là tài liệu quý, một công trình có tầm khái quát lý luận cao, tổng kết thực tiễn sâu sắc, thể hiện sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, có giá trị lý luận và thực tiễn trong xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Kế thừa những tinh hoa văn hóa dân tộc và thời đại, quán triệt và vận dụng đúng đắn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh phải hết sức coi trọng lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Trong đó, căn cốt là thấm nhuần, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định đường lối đổi mới; mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tổng Bí thư khẳng định: “Văn hóa là hồn cốt của Dân tộc, nói lên bản sắc của Dân tộc… Văn hóa còn thì Dân tộc còn,…”(2), phát triển văn hóa là một đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước; phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, “Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới(3). Để thực hiện mục tiêu con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, cần phải phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, cùng nhiều chủ trương, giải pháp đồng bộ, toàn diện của cả hệ thống chính trị.

Để chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch tiến hành tổng hợp các phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, trong đó chúng đặc biệt đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, thể hiện qua các thủ đoạn và nội dung chủ yếu, như: Thứ nhất, bôi nhọ, xuyên tạc, công kích chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng. Thứ hai, đả kích bản sắc văn hóa dân tộc, đặc biệt là truyền thống văn hóa, văn nghệ cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa - những giá trị tinh thần của chế độ xã hội chủ nghĩa; truyền bá văn hóa, lối sống tư sản phương Tây vào nước ta - lối sống thực dụng, vụ lợi cá nhân, sùng bái đồng tiền, dâm ô, trụy lạc phi nhân tính... Chúng tìm mọi phương thức để các sản phẩm văn hóa độc hại xâm nhập vào nước ta. Chúng sử dụng các sản phẩm văn hóa đồi trụy, phản động để đầu độc quần chúng nói chung, đặc biệt là thế hệ thanh niên ở nước ta nói riêng, làm lệch lạc giá trị thẩm mỹ, thị hiếu nghệ thuật, giá trị đạo đức của xã hội theo chiều hướng xấu; hòng biến thế hệ trẻ thành công cụ và lực lượng xã hội chủ yếu của “diễn biến hòa bình”; kích thích sự phục hồi, âm mưu phát triển lối sống mê tín dị đoan, tôn thờ chủ nghĩa hữu thần; tìm hiểu, móc nối, mua chuộc, lôi kéo, kích động trí thức, văn nghệ sĩ có tư tưởng bất mãn, thù địch, cơ hội, hữu khuynh cực đoan, sa đọa về phẩm chất đạo đức,... vào con đường sai trái, chống lại Đảng, Nhà nước và nhân dân; tìm cách thao túng, lũng đoạn, chi phối các cơ quan, tổ chức văn hóa, văn nghệ, làm cho văn hóa, văn nghệ đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ ba, chúng lợi dụng những người bất mãn trong nội bộ Đảng, bộ máy nhà nước, tìm cách lôi kéo, hướng lái làm chuyển hóa từ bên trong; gây tâm lý hoài nghi dẫn tới phủ định chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch sử dụng “vấn đề nhân quyền” để can thiệp vào công việc nội bộ của chúng ta, đặt điều kiện hòng “ép ta” thỏa hiệp, nhượng bộ về chính trị, thay đổi đường lối của ta, đi theo quỹ đạo của chúng, núp dưới chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” để tạo dư luận, kích động thế giới cô lập Việt Nam, gieo rắc sự nghi ngờ trong các công dân Việt Nam đối với Nhà nước, khơi dậy sự phản kháng của những kẻ bất mãn, những phần tử cơ hội, thoái hóa, biến chất. Các thế lực thù địch còn vu khống, xuyên tạc chính sách của Nhà nước ta về tôn giáo, dân tộc… Thứ tư, chúng kích động lối sống sùng ngoại, thực dụng, cá nhân vị kỷ, ham muốn làm giàu, ham muốn quyền lực cực đoan...; chạy theo lợi ích vật chất, lạm dụng địa vị, quyền lực đang đảm nhiệm để mưu cầu lợi ích cá nhân; đặt giá trị vật chất ở vị trí cao trong thang giá trị cuộc sống; âm mưu làm trầm trọng hơn tệ tham nhũng, lãng phí, nạn quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa, địa phương chủ nghĩa, bè phái, mất đoàn kết. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ giữ chức vụ, quyền hạn cao ở một số cơ quan, đơn vị, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa là một nội dung cơ bản của đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, đấu tranh giữa hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa và hệ tư tưởng tư sản. Cuộc đấu tranh này diễn ra rất phức tạp, gay go và quyết liệt. Thành bại của cuộc đấu tranh này liên quan đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ ta, không thể xem nhẹ. Do đó, nếu chúng ta chủ quan, mất cảnh giác hoặc nhận thức không đầy đủ về những tác động phá hoại của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, thì các thế lực thù địch, phản động càng có nhiều cơ hội để tiến hành âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” nhằm chống Đảng, Nhà nước ta. Tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” chỉ rõ: “những thiếu sót, khuyết điểm trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng văn hóa vừa qua cũng là những rào cản lớn đối với phát triển văn hóa. Sự tác động của quá trình toàn cầu hóa, cạnh tranh quốc tế và cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng cũng sẽ diễn ra quyết liệt, phức tạp hơn”(4). Kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa là một nhiệm vụ hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị; là công việc tự giác, thường xuyên của các cấp ủy, tổ chức đảng…, trong đó Quân đội nhân dân Việt Nam là một trong những lực lượng nòng cốt, đi đầu.

Nhận thức sâu sắc tính chất nguy hiểm và phức tạp của nhiệm vụ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân đã quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” và các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương, nghị quyết các kỳ đại hội Đảng về công tác tư tưởng, lý luận của Đảng. Chủ động làm tốt công tác nghiên cứu chiến lược, nắm bắt, đánh giá, dự báo đúng tình hình, đặc biệt là những vấn đề về âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước nhiều chủ trương, giải pháp có ý nghĩa chiến lược trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội.

Công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức các lực lượng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong quân đội đã được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai toàn diện, đồng bộ các giải pháp, cả về tổ chức, lực lượng, nội dung, hình thức, phương tiện tiến hành; chú trọng phát huy tốt vai trò của các tổ chức, các lực lượng, vai trò của các cơ quan báo chí quân đội tham gia đấu tranh, nhất là đề cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, bí thư, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị, ban chỉ đạo 35, lực lượng nòng cốt, chuyên sâu các cấp và các tổ chức quần chúng trong đơn vị; nhiều website, blog, trang, nhóm, tài khoản của các tổ chức, cá nhân đã tích cực, chủ động viết tin, bài phục vụ tích cực cho công tác thông tin, tuyên truyền, đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch với các bài viết sắc sảo, tính chiến đấu cao, có cơ sở lý luận và thực tiễn thuyết phục, được dư luận đồng tình, ủng hộ. Cấp ủy, chỉ huy các cấp đã xây dựng, ban hành đề án, kiện toàn, thành lập mới ban chỉ đạo 35 ở các cơ quan, đơn vị; đầu tư trang thiết bị, các giải pháp kỹ thuật, công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo; thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ phục vụ nhiệm vụ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về tư tưởng, văn hóa, đặc biệt là trên không gian mạng. Nhờ đó, công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức các lực lượng đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong quân đội đạt được mục đích, yêu cầu đề ra, nền tảng tư tưởng của Đảng trong quân đội được giữ vững và tăng cường; cán bộ, chiến sĩ luôn kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ của cách mạng, quân đội trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Trung tướng Trịnh Văn Quyết, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và các đại biểu tham quan trưng bày, giới thiệu tài liệu tham khảo, giảng dạy chính trị của các đơn vị, tháng 7-2023 _Ảnh: TTXVN

Trong thời gian tới, dự báo tình hình thế giới và khu vực tiếp tục còn có những diễn biến phức tạp, khó lường; các thách thức an ninh phi truyền thống gia tăng; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt… Đất nước ta gần 40 năm đổi mới tiếp tục phát triển nhanh, đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, nhưng cũng đang đứng trước những khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch tăng cường đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và “phi chính trị hóa” quân đội… Xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, “giữ nước từ khi nước chưa nguy” đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao…

Quán triệt và thực hiện quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thông qua tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, để đẩy mạnh đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong quân đội, cần quán triệt và tổ chức thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp cơ bản sau:

Một là, đẩy mạnh đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong quân đội và luôn coi đó là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu, là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, người chỉ huy, của từng cán bộ, chiến sĩ, trước hết là người đứng đầu.

Quan điểm trên đã được khẳng định trong Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”: “Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng mang tính sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó lực lượng tuyên giáo các cấp là nòng cốt; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của từng cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu”.

Quán triệt và thực hiện quan điểm trên, “Cấp ủy đảng và chính quyền các cấp phải nhận thức sâu sắc và quán triệt đầy đủ các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về văn hóa”(5); các cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp cần nhận thức đúng vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng, xác định rõ vai trò, trách nhiệm, thường xuyên quan tâm đến công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong quân đội; quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, hướng dẫn của Trung ương, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong quân đội thời kỳ mới. Đồng thời, thường xuyên nắm bắt, đánh giá đúng thực trạng tình hình đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa ở cơ quan, đơn vị mình; chỉ rõ ưu điểm và khuyết điểm, nguyên nhân của ưu điểm và khuyết điểm để kịp thời có những chủ trương, biện pháp lãnh đạo cụ thể, sát đúng, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong quân đội.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, các cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp cần chủ động xây dựng kế hoạch, nội dung đấu tranh trọng tâm, sát với sự lãnh đạo, chỉ đạo của trên; dự báo kịp thời với sự phát triển của tình hình; tích cực đấu tranh, chủ động phòng ngừa từ sớm, từ xa, nhiều tầng, nhiều lớp, không để bị động, bất ngờ trước mọi tình huống. Đặc biệt, cơ quan chính trị các cấp cần thực hiện tốt chức năng tham mưu, hướng dẫn, chỉ đạo; phát huy vai trò các tổ chức quần chúng, hội đồng quân nhân, chủ động phối hợp với cấp ủy, chính quyền, cơ quan, ban, ngành, đoàn thể ở Trung ương và địa phương để thực hiện có hiệu quả công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa của Đảng trong quân đội.

Các cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp cần coi trọng việc tổng kết thực tiễn trong nghiên cứu tư tưởng, lý luận, nhất là thực tiễn công tác, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong quân đội những năm vừa qua. Qua đó, kế thừa và phát huy những kinh nghiệm đấu tranh đã tích lũy được, vận dụng và phát triển sáng tạo vào điều kiện lịch sử mới. Cần đề phòng và khắc phục sự bảo thủ, kinh nghiệm chủ nghĩa, giáo điều, thoát ly thực tế hoặc “khoán trắng” cho các cơ quan, lực lượng chức năng trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa của Đảng trong quân đội.

Trong tình hình hiện nay, cần tăng cường hiệu lực lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Từ Quân ủy Trung ương đến các chi bộ đều có trọng trách lãnh đạo tiến hành công tác đảng, công tác chính trị nhằm giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội và xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị; làm cho cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhất trí và tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, với đường lối đổi mới, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng trong giai đoạn mới của cách mạng; sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Hai là, thường xuyên nghiên cứu, quán triệt sâu sắc và nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị, đề án của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam về nhiệm vụ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong tình hình mới.

Theo đó, các cấp ủy, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên và cơ quan chính trị các cấp cần thường xuyên nghiên cứu, quán triệt sâu sắc và nắm vững các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, hướng dẫn của Đảng, của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về nhiệm vụ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Trên cơ sở đó, chủ động xây dựng các chương trình, kế hoạch và phương pháp đấu tranh phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị.

Các cấp ủy, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên và cơ quan chính trị các cấp phải xác định rõ việc nghiên cứu, quán triệt sâu sắc và nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị, đề án của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa là một nhiệm vụ chính trị quan trọng và thường xuyên trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ ở mỗi cơ quan, đơn vị. Hằng năm, các cơ quan, đơn vị phải xây dựng kế hoạch nghiên cứu, quán triệt, bồi dưỡng, học tập bắt buộc đối với mọi quân nhân, trước hết là bí thư cấp ủy, người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên gắn với việc cung cấp thông tin, cập nhật những quan điểm, luận điểm chỉ đạo mới của Đảng, của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về nhiệm vụ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa phù hợp từng đối tượng, từng đơn vị.

Ba là, phải kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”.

Đây chính là quan điểm được xác định trong Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” và Đề án “Quân đội phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong tình hình mới”, đó là: “Gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, “xây” là cơ bản, “chống” phải quyết liệt, hiệu quả”. Trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” đã xác định: “chú trọng xây dựng văn hóa ứng xử lành mạnh trong xã hội, phát huy những giá trị tích cực về thuần phong, mỹ tục của gia đình và xã hội; nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết; trọng tình nghĩa, trọng công lý và đạo lý xã hội...”, “Xây dựng các quy tắc ứng xử văn minh trong các cơ quan công quyền, trong cộng đồng, nhất là trong không gian mạng, trong giới văn nghệ sĩ, v.v..”, “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, tiêu cực, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, nguồn gốc của mọi sự tham nhũng, tiêu cực, hư hỏng ngay trong các ngành văn hóa, các cơ quan làm công tác văn hóa. Chú trọng thực hiện quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên”(6).

Thực hiện quan điểm trên, các cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy các cấp xác định rõ việc đẩy mạnh đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong quân đội phải được tiến hành kiên trì, thường xuyên, liên tục ở tất cả các cấp; trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, cả trong lúc học tập, huấn luyện, công tác, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu cũng như trong sinh hoạt hằng ngày; khắc phục triệt để tình trạng “giao khoán” cho cơ quan chuyên trách hoặc hạ thấp, xem nhẹ hoạt động này.

Để “xây” tốt phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng; về các chỉ thị, nghị quyết, kết luận, hướng dẫn của Đảng, của cấp ủy các cấp và các cơ quan chức năng có liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng; hiểu biết đầy đủ về âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, nhất là phương thức và hoạt động chống phá mới của các thế lực thù địch, phản động trong tình hình mới. Trong “chống”, phải tổ chức đấu tranh quyết liệt, hiệu quả, kiên trì, kiên quyết, không thỏa hiệp, hữu khuynh với những nhận thức lệch lạc, thái độ bàng quan, thờ ơ trước các thông tin, quan điểm sai trái, thù địch tràn lan trên internet, mạng xã hội; những hành vi và thói quen xấu của cán bộ, chiến sĩ khi sử dụng mạng xã hội, như lạm dụng thời gian, bình luận những thông tin không chính thống, chạy theo tâm lý “đám đông”, “phao tin giật gân” trên các trang mạng xã hội làm ảnh hưởng đến phẩm chất, nhân cách của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang; tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức chính trị, trách nhiệm, tinh thần chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa cho cán bộ, chiến sĩ, công nhân, viên chức quốc phòng ở cơ quan, đơn vị.

Bốn là, kết hợp đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp đấu tranh phản bác các điểm sai trái, thù địch với xây dựng đời sống văn hóa ở đơn vị trong tình hình mới.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Trong quá trình đa dạng hóa các hoạt động văn hóa, Nhà nước cần chú trọng đầu tư vào dòng chủ lưu của văn hóa cách mạng để làm nòng cốt và dẫn dắt, truyền cảm hứng chủ đạo trong việc bồi dưỡng tư tưởng, tâm hồn, tình cảm trong sáng, lành mạnh, góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội”(7). Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” khẳng định: “Đổi mới nội dung, phương pháp, đa dạng hóa hình thức, coi trọng hiệu quả, trên tinh thần chủ động, cảnh giác, thường xuyên, kiên trì, kiên quyết, đồng thời có trọng tâm, trọng điểm”.

Đẩy mạnh triển khai thực hiện 3 chương trình trọng điểm: văn hóa, văn học - nghệ thuật, báo chí quân đội, tạo ra nhiều tác phẩm có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật phục vụ bộ đội và nhân dân _Nguồn:truongsaxanh.vietnam.vn

Thực hiện quan điểm trên, đối với lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, cấp ủy, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên, cơ quan chính trị các cấp cần tiếp tục nâng cao chất lượng xây dựng môi trường văn hóa ở đơn vị cơ sở theo các mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra, làm chuyển biến căn bản đời sống văn hóa, tinh thần của bộ đội. Xây dựng môi trường văn hóa phong phú, lành mạnh, là nơi nuôi dưỡng, hình thành những tập thể quân nhân phấn đấu, rèn luyện, phát huy phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”; tiếp tục cụ thể hóa mô hình, tiêu chí “Đơn vị văn hóa” ở các loại hình đơn vị. Đồng thời, đẩy mạnh triển khai thực hiện 3 chương trình trọng điểm: văn hóa, văn học - nghệ thuật, báo chí quân đội, tạo ra nhiều tác phẩm có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật phục vụ bộ đội và nhân dân. Các cấp cần chú ý kiện toàn, củng cố các thiết chế văn hóa, đủ sức chuyển tải các giá trị văn hóa, nghệ thuật đến cơ sở.

Đổi mới, đa dạng hóa các hình thức và phương pháp đấu tranh phản bác trên cơ sở giữ vững nguyên tắc: Chủ động tiến công và kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng, có luận cứ khoa học với các quan điểm phản động, phản khoa học, các hoạt động phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch. Chủ động đấu tranh trực diện với các quan điểm sai trái bằng nhiều con đường, phương thức khác nhau. Phải tiến hành đấu tranh chống các quan điểm sai trái ở từng cơ quan, đơn vị, trong mỗi tổ chức và cá nhân, coi đó là phương pháp tự bảo vệ mình, thông qua đó hình thành một mặt trận thống nhất trong toàn quân tham gia đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, vô hiệu hóa mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch, giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng trong quân đội.

Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về quyết tâm chấn hưng và xây dựng thành công một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhất là thông tin tích cực trên mạng lưới báo chí, đài phát thanh, truyền hình, internet... Trong đó, các cơ quan báo chí quân đội tiếp tục có những hình thức tuyên truyền mới phù hợp, sát với trình độ nhận thức của từng đối tượng cụ thể; bám sát các sự kiện chính trị, vấn đề dư luận quan tâm, thường xuyên nắm chắc âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá mới của các thế lực thù địch để viết bài đấu tranh, định hướng dư luận; tăng cường xây dựng các chuyên trang, chuyên mục, chương trình, thời lượng đăng tải các tin, bài đấu tranh phản bác, vạch trần tính chất phản động, phản khoa học của những quan điểm, luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch nhằm chống phá chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Phát huy vai trò của các hình thức giáo dục chính trị tại đơn vị, tuyên truyền miệng và qua đội ngũ báo cáo viên ở các cấp để phê phán các quan điểm sai trái về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cung cấp và định hướng thông tin đúng đắn cho mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ. Đặc biệt, cần có những biện pháp quản lý chặt chẽ mạng internet, tăng cường theo dõi, kịp thời phát hiện, xử lý hiệu quả các trang mạng có nội dung phản động nhằm ngăn chặn nguồn tuyên truyền, phát tán những tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch; kết hợp với tăng cường mở mới, đa dạng các trang mạng, báo chí có nội dung đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong quân đội, trong đó có nội dung về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; không để lộ, lọt thông tin theo quy định của Nhà nước và quân đội, qua đó từng bước làm chủ thế trận tiến công trên mạng internet.

Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước hiện nay, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Và điều hết sức quan trọng là phải luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động...”, “Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”(8). Quán triệt và thực hiện tư tưởng trên, các học viện, nhà trường quân đội cần tăng cường nghiên cứu, quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vào hoạt động giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ các cấp và nghiên cứu khoa học. Từng cấp căn cứ vào tình hình cụ thể mà quy định nội dung, hình thức, phương pháp nghiên cứu, quán triệt, học tập và vận dụng cho phù hợp với từng đối tượng người học cụ thể. Chú trọng làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn các quan điểm, đường lối của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; thảo luận dân chủ, trao đổi cởi mở, tự do tư tưởng giúp người học nâng cao nhận thức để tự mình có thể giải đáp những vướng mắc mà thực tiễn cuộc sống đặt ra đúng với quan điểm, đường lối của Đảng. Qua đó, góp phần làm cho người học hiểu và tin vào tính khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức được tính tất yếu khách quan về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; hiểu và tin vào đường lối, chủ trương của Đảng, vào tương lai, tiền đồ tốt đẹp của dân tộc, vào thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước, triển vọng của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và trên thế giới.

Tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng thể hiện tư tưởng xuyên suốt, nhất quán, kiên định và sự phát triển sáng tạo, hoàn thiện tư duy lý luận, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, có giá trị lý luận và thực tiễn trong định hướng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong bối cảnh mới. Trong những năm tới, cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong quân đội tiếp tục diễn ra hết sức nóng bỏng, gay gắt, phức tạp và ngày càng quyết liệt... Vì vậy, trách nhiệm của các cấp ủy, người chỉ huy cơ quan, đơn vị trong quân đội trên trận tuyến này cũng sẽ ngày càng nặng nề, phức tạp hơn. Song, với bản chất, truyền thống tốt đẹp “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”; với bản lĩnh chính trị đã được trau dồi, hun đúc vững vàng qua gần 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, quân đội nhất định sẽ làm tròn trọng trách của mình, xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới./.

----------------------------------

(1) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 28
(2), (3), (4), (5), (6), (7), (8) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 157, 27 - 28, 169, 172, 175 - 176, 173, 37 - 38


Vận dụng phương pháp phát huy sức mạnh quần chúng trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng vào công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay

TS Nguyễn Thị Thu Hà
Học viện Chính trị khu vực I
15:35, ngày 29-06-2024

TCCS - Sức mạnh của quần chúng là yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của mọi cuộc cách mạng. Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vai trò của nhân dân trong lịch sử và tư tưởng “nước lấy dân làm gốc”(1) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo phương pháp phát huy sức mạnh quần chúng vào công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an dự Ngày hội Văn hoá, thể thao và du lịch các dân tộc vùng Tây Nguyên lần thứ I, năm 2023, ngày 29-11-2023 _Nguồn: baokontum.com.vn

Phương pháp pháp huy sức mạnh quần chúng trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng

Cách mạng muốn thắng lợi, trước hết phải xác định đường lối và phương pháp đúng đắn và phù hợp. Trong đó, phương pháp cách mạng là cách thức để tổ chức thực hiện đường lối đạt hiệu quả, giải quyết được những yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra trong từng thời kỳ; đồng thời, huy động cao nhất lực lượng cách mạng tự giác, tích cực tham gia đấu tranh giải phóng dân tộc với quyết tâm giành thắng lợi cao nhất. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, vì vậy, phương pháp cách mạng phải bao gồm việc tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ, tập hợp và xây dựng lực lượng quần chúng thành “bức tường đồng” bất khả xâm phạm. Chỉ khi quy tụ, tập hợp toàn dân sẽ tạo thành sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đưa đất nước vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, trường tồn trước những biến thiên của lịch sử, để “non sông nghìn thuở vững âu vàng”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân là lực lượng đông đảo trong xã hội, nhưng nếu mỗi người đứng riêng rẽ thì sẽ không thể tạo thành sức mạnh, chỉ khi được giác ngộ, quy tụ trong một khối thống nhất mới tạo thành sức mạnh “muôn người như một”. Tuy nhiên, việc quy tụ, tập hợp và phát huy sức mạnh quần chúng nhân dân đòi hỏi phải có phương pháp, hình thức phù hợp, trong đó, Đảng phải là hạt nhân. Trên cơ sở kế thừa và tiếp nối truyền thống của cha ông về tinh thần “thân dân, trọng dân, yêu dân” và sức mạnh “chở thuyền”, “lật thuyền” của nhân dân; quán triệt sâu sắc tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi nhân dân là “mạch nguồn” tạo nên sức mạnh nội sinh, quyết định sự hưng thịnh, suy vong của quốc gia - dân tộc; là “thành lũy” kiên cố vững chắc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ngay từ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược cơ bản của cách mạng Việt Nam là đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp bằng con đường “bạo lực cách mạng”. Đồng thời, nhấn mạnh, bạo lực cách mạng nhất thiết phải có sự tham gia đông đảo của quần chúng. Bởi, “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào”(2), chỉ khi quần chúng được giác ngộ, quy tụ thành một khối thống nhất mới trở thành lực lượng hùng hậu chống lại bạo lực phản cách mạng. Rút kinh nghiệm từ thực tiễn các phong trào yêu nước trước khi Đảng ra đời (phong trào Cần Vương, phong trào của Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu…) đều thất bại do chưa có đường lối đấu tranh đúng đắn và phương pháp cách mạng phù hợp; trải qua ba cao trào cách mạng từ 1930 - 1945, Đảng đã chứng minh đường lối, phương pháp bạo lực dựa trên sức mạnh quần chúng là đúng đắn. Lòng dân, sức dân dưới sự lãnh đạo của Đảng được quy tụ, chuyển hóa thành sức mạnh vô địch làm nên kỳ tích lịch sử, mà đỉnh cao là cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Những bài học lớn về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn còn nguyên giá trị để Đảng ta vận dụng sáng tạo, linh hoạt trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch hiện nay.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nhưng ngay sau đó, vận mệnh của đất nước rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” khi giặc đói, giặc dốt, đặc biệt là giặc ngoại xâm đang đe dọa nghiêm trọng nền độc lập, tự do của dân tộc. Với dã tâm “cướp nước ta một lần nữa”, thực dân Pháp đã đặt dân tộc Việt Nam trước thử thách mới: Hoặc chiến đấu để giữ vững nền độc lập, hoặc trở lại kiếp nô lệ một lần nữa. Trước tình thế hiểm nghèo của đất nước, ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, hiệu triệu cả dân tộc nhất tề đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Đây là quyết định đúng đắn và kịp thời, thể hiện sự chủ động và bản lĩnh của Đảng ta với niềm tin sắt đá vào sức mạnh của quần chúng nhân dân, cùng với quyết tâm “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(3), Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm hoạch định đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính; đồng thời, sáng tạo trong việc khơi dậy, quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc để xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, chủ động khai thác và động viên được sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, viết nên thiên sử vàng cho lịch sử dân tộc.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã phát huy và đưa sức mạnh toàn dân lên tầm cao mới. Trong hoàn cảnh “nước sôi lửa bỏng”, vừa phải đương đầu với đế quốc Mỹ - một kẻ thù hùng mạnh nhất thế giới ở miền Nam, vừa phải giải quyết nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa ở xã hội ở miền Bắc, với trí tuệ, bản lĩnh sáng suốt, Đảng đã huy động tổng lực sức người, sức của trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, văn hóa… để chi viện cho tiền tuyến, tạo sức mạnh tổng hợp đánh bại đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Như vậy, trước sự tồn vong của dân tộc, với phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, dựa vào nhân dân, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, sáng suốt chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua thác ghềnh hiểm nguy, từng bước tiến lên.

Thực tiễn sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước đã minh chứng nhờ có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, Đảng đã tập hợp, quy tụ, phát huy được sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân, làm cơ sở cho việc hình thành và phát triển một “đạo quân chính trị” hùng hậu cho cách mạng; khơi dậy và nhân lên sức mạnh của lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, quyết tâm giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đây là nét độc đáo trong phương pháp cách mạng của Đảng ở thời kỳ này.

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Song, do lạc hậu về nhận thức lý luận, cùng với những sai lầm “tả khuynh”, “hữu khuynh” trong tổ chức thực hiện nên đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng; cùng với sự bao vây, cấm vận, chống phá của các thế lực thù địch. Trước hoàn cảnh đó, Đảng tiếp tục vận dụng sáng tạo, linh hoạt phương pháp phát huy sức mạnh quần chúng để xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, nắm vững thời cơ, vượt qua thách thức, đưa công cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên giành nhiều thắng lợi mới. Với bản lĩnh kiên cường, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thành công trong việc quy tụ, đoàn kết quần chúng nhân dân tạo thành sức mạnh vô địch đưa đất nước vượt qua mọi sóng to, gió lớn của thời cuộc, đạt nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật, đất nước phát triển nhanh và bền vững(4).

Điệu xòe Thái thể hiện tình đoàn kết và sức mạnh của cộng đồng _Ảnh: TTXVN

Vận dụng phương pháp phát huy sức mạnh quần chúng trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng vào công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay

Ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng luôn nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ sống còn, quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, cũng như thành công của công cuộc đổi mới đất nước. Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch là công việc hệ trọng, thường xuyên, liên tục liên quan trực tiếp đến vận mệnh quốc gia - dân tộc và lợi ích của nhân dân. Do đó, cần dựa vào dân, phát huy sức mạnh toàn dân để thực hiện “nhiệm vụ sống còn” này, nhất là khi các thế lực thù địch ra sức đẩy mạnh các hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam với nhiều hình thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hòng kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xóa bỏ cơ sở chính trị - xã hội quan trọng nhất đối với sự cầm quyền của Đảng là nền nhân dân. Nhân dân là lực lượng đông đảo trong xã hội, là “tai mắt” của Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội, khi được tuyên truyền, giáo dục, huy động, quy tụ, tập hợp bằng phương pháp phù hợp, họ sẽ có khả năng “tự đề kháng” trước những thông tin xấu độc, có cách thức đấu tranh hiệu quả để mỗi người dân đều trở thành một chiến sĩ trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; luôn tin tưởng và chủ động bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Quán triệt sâu sắc quan điểm “nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và vận dụng sáng tạo, linh hoạt phương pháp phát huy sức mạnh quần chúng nhân dân vào công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay, đã giúp củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; “thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng”(5). Đây là vấn đề cốt lõi để xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thời gian qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo mang tính chiến lược về phát huy vai trò của nhân dân trong việc giám sát, tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Trong đó, Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” nhấn mạnh nội dung “dựa vào dân”, phát huy sức mạnh của nhân dân để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới là giải pháp quan trọng hàng đầu. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Mọi công việc của Đảng và Nhà nước phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”(6), đồng thời, khẳng định chiến lược xây dựng “thế trận lòng dân” là nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Sau hơn 5 năm triển khai Nghị quyết số 35-NQ/TW, nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái có nhiều chuyển biến rõ nét, tích cực; đồng thời huy động được sức mạnh tổng hợp trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Công tác thông tin, tuyên truyền có nhiều đổi mới, sáng tạo cả về nội dung, hình thức, phương thức thể hiện, phát huy tốt vai trò dẫn dắt, định hướng thông tin của các cơ quan báo chí, truyền thông; lan tỏa, nhân rộng những cách làm hay, gương người tốt, việc tốt tới cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân... Những kết quả này góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước.

Tuy nhiên, trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay, việc xây dựng “thế trận lòng dân”, dựa vào dân và phát huy sức mạnh toàn dân có lúc, có nơi còn hạn chế, bất cập. Do đó, để xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, tạo sự đồng thuận, “đồng tâm hiệp lực” của nhân dân, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:

Một là, quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, là chủ thể, là trung tâm trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Nhân dân là chủ thể, là trung tâm của công cuộc đổi mới, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, do đó, mọi chủ trương, chính sách đều phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; khơi dậy được sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân trong đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch. Kiên trì thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Thường xuyên tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để hiểu dân, kịp thời đáp ứng những nguyện vọng chính đáng của nhân dân, tránh để những bức xúc nổi cộm thành “điểm nóng”.

Hai là, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục, làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức, trách nhiệm của nhân dân trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú để giúp nhân dân nhận thức và hiểu rõ về vai trò, trách nhiệm công dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Đảng, chính quyền. Tăng cường trang bị cho nhân dân kiến thức, kỹ năng để nhận diện phương thức, phương tiện, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; kịp thời và chủ động thông tin, tuyên truyền về những vụ việc, vấn đề nhạy cảm, phức tạp, không để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá, xuyên tạc, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ.

Ba là, tăng cường xây dựng, chính đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.

Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu quả; phát huy dân chủ gắn liền với tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và toàn xã hội; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đẩy mạnh công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với phương châm “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”. Tiếp tục dựa vào dân để kiểm tra, giám sát, đánh giá công tác cán bộ, kiên quyết đấu tranh, phê phán với những biểu hiện thờ ơ, vô cảm, quan liêu, nhũng nhiễu nhân dân.

Bốn là, đẩy mạnh triển khai hiệu quả các chủ trương, chính sách hợp lòng dân, thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng - kỹ thuật; xây dựng, hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao ở cơ sở góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo…; bảo đảm chính sách an sinh xã hội, nâng cao chất lượng công tác giáo dục, y tế. Tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch./.

--------------------------------

(1), Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 501
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 672
(3), Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 534, 89.
(4), (6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 20, 27.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 248.