Những thách thức đặt ra và bài học kinh nghiệm sau hơn 30 năm đổi mới của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh
TCCS - Thành tựu hơn 30 năm đổi mới tạo tiền đề vững chắc, tạo thế và lực mới để Quảng Ninh bước vào giai đoạn phát triển tiếp theo, đan xen cả những thời cơ cùng không ít khó khăn, thách thức, mâu thuẫn. Việc kịp thời tiên liệu và nhận diện những thách thức, mâu thuẫn, đồng thời đúc rút những bài học kinh nghiệm là cơ sở quan trọng để Quảng Ninh có những quyết sách đúng đắn ở giai đoạn phát triển tiếp theo, nhất là trước thềm Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2020 - 2025, với mục tiêu xây dựng Quảng Ninh đến năm 2025 là tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại, trung tâm du lịch quốc tế, một trong những cực tăng trưởng của miền Bắc; trước năm 2030 trở thành thành phố trực thuộc Trung ương.
Sau hơn 30 năm đổi mới, Quảng Ninh trở thành một trong những tỉnh phát triển mạnh, nằm trong nhóm các địa phương có tốc độ tăng trưởng cao nhất toàn quốc, nhất là trong 15 năm gần đây. Bình quân giai đoạn 2005 - 2010 đạt 13%, giai đoạn 2011 - 2015 đạt 9,3 %, đặc biệt giai đoạn 2016 - 2020 ước tăng 11,12%, cao hơn mức tăng bình quân chung cả nước (ước tăng 6,71%). Quy mô bề rộng và tiềm lực nội sinh của nền kinh tế tăng mạnh, nhất là trong 5 năm (2011 - 2015) tăng gấp 2 lần so với năm 2010. Từ chỗ thu không đủ chi, thường xuyên phải nhận trợ cấp từ Trung ương trong những năm đầu đổi mới, hiện nay, Quảng Ninh luôn nằm trong nhóm 5 địa phương thu ngân sách cao nhất toàn quốc. Quảng Ninh đã trở thành trung tâm kinh tế lớn của cả nước, từng bước khẳng định vị thế, vai trò là địa bàn động lực trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, đang tạo ra thế và lực mới rất quan trọng cho sự phát triển lâu dài của tỉnh... Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, Quảng Ninh cũng đang đứng trước nhiều thách thức, mâu thuẫn đặt ra, nhất là trong bối cảnh, yêu cầu, mục tiêu phát triển mới, nổi bật là:
Một là, giải quyết mâu thuẫn giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển, trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ.
Nhìn lại hơn 30 năm đổi mới, có thể hình dung một cách khái quát, Quảng Ninh đã đạt được những thành tựu quan trọng, có những bước phát triển nhanh, nhiều lĩnh vực có sự phát triển đột phá. Tuy nhiên, trong sự phát triển đó vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố thiếu bền vững, thực chất, như: Mô hình tăng trưởng tuy có xu hướng chuyển dịch tốt hơn nhưng vẫn dựa nhiều vào tài nguyên hữu hạn và nhân công giá rẻ, nhất là than; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; chỉ số ICOR cao; tỷ trọng ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm; mặc dù đã có những công trình mang tính chiến lược, động lực song kết cấu hạ tầng nhìn chung chưa thực sự đồng bộ... Công nghiệp và đô thị phát triển “nóng” để lại nhiều hậu quả môi trường; hàm lượng khoa học - công nghệ trong sản xuất chưa cao, xuất khẩu chủ yếu là những sản phẩm thô chưa qua chế biến; tính chủ động trong đề xuất cơ chế, chính sách phát triển theo liên kết vùng còn yếu giữa các địa phương trong tỉnh và giữa tỉnh với các tỉnh, thành phố lân cận; hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp còn khó khăn, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, sức cạnh tranh yếu...
Những chỉ báo trên cho thấy rõ, giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng chưa đồng đều, tương xứng trong chiến lược phát triển của tỉnh, có những mặt ngày càng mâu thuẫn nếu không tháo gỡ, sẽ tạo rào cản, trở lực lớn cho quá trình đi lên. Điều đó đặt ra yêu cầu bức thiết về cơ cấu lại nền kinh tế, lấy các ngành dịch vụ phục vụ đẳng cấp có giá trị gia tăng cao dựa vào lợi thế các di sản, các ngành sản xuất giàu hàm lượng tri thức, khoa học và tính kết nối thông minh làm trụ cột trong phát triển, xây dựng Quảng Ninh trở thành địa bàn động lực phát triển của vùng và vành đai kinh tế vịnh Bắc Bộ.
Hai là, mâu thuẫn giữa tiềm năng lớn chưa được giải phóng toàn diện với một số thể chế, cơ chế, chính sách đang kìm hãm sự phát triển, trong khi nguồn lực bị hạn chế cả về con người và vật chất.
Quảng Ninh được ví như hình ảnh nước Việt Nam thu nhỏ, có vị trí chiến lược về chính trị, kinh tế, quốc phòng - an ninh và đối ngoại; có biên giới trên bộ, trên biển và trên không với Trung Quốc; nằm trong Khu vực hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt - Trung”, hợp tác liên vùng vịnh Bắc Bộ, hành lang kinh tế Nam Ninh - Xin-ga-po, cầu nối quan trọng của hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc. Quảng Ninh có nhiều cảnh quan có giá trị toàn cầu, như vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long, có hơn hai nghìn hòn đảo chiếm hơn 2/3 số đảo cả nước (2.077/2.779), trải dài theo đường ven biển hơn 250km chia thành nhiều lớp; có nguồn tài nguyên, khoáng sản phong phú, đa dạng, với trữ lượng than lớn nhất Đông Nam Á...
Đặc biệt, Quảng Ninh là cái nôi của giai cấp công nhân Việt Nam trên vùng đất quần tụ tinh hoa từ nhiều miền của đất nước với 22 dân tộc anh em tạo nên sự giao thoa và kết tinh nền văn hóa đa sắc, thống nhất trong đa dạng. Quảng Ninh là một trong những địa phương có kho tàng di sản văn hoá phong phú và đa dạng. Văn hóa Quảng Ninh được hình thành và kết hợp bởi văn hóa biển, văn hóa công nhân mỏ và sự hội tụ, giao thoa giữa nền văn minh sông Hồng với văn hóa vùng Đông Bắc.
Văn hoá Hạ Long về bản chất là văn hoá biển, tồn tại và phát triển rất năng động trong các mối giao lưu, hội nhập và thích ứng văn hoá; có được những giao lưu, trao đổi ngang dọc với các trung tâm văn hoá lớn là nhờ cư dân Văn hóa Hạ Long đã phát huy nội lực, đứng vững trên cơ tầng văn hoá biển, phát huy thế mạnh của cư dân sông nước và tranh thủ thành tựu của cư dân đồng bằng, cùng đóng góp xây dựng nên một nền văn minh Việt cổ. Văn hóa công nhân mỏ được hình thành từ năm 1840 khi người Việt Nam bắt đầu bổ nhát cuốc đầu tiên khai thác mỏ than đá tại núi Yên Lãng (Đông Triều) theo chỉ dụ của vua Minh Mạng, năm 1840. Cùng với quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở vùng Đông Bắc, lực lượng công nhân mỏ được hình thành và phát triển ngày càng đông đảo. Đội ngũ công nhân xuất thân từ nhiều vùng miền khác nhau, sống đoàn kết, quần tụ đã tạo sự giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa các vùng miền, hình thành nên văn hóa công nhân mỏ. Văn hóa công nhân mỏ là sự kết hợp của hai yếu tố: những nét văn hóa truyền thống của một số vùng miền trong cả nước và văn hóa hiện đại ra đời từ cuộc sống công nghiệp. Đặc biệt, trong quá trình đấu tranh cách mạng, đội ngũ công nhân mỏ sớm giác ngộ được sứ mệnh lịch sử, kết thành một khối vững chắc, hình thành nên giá trị cốt lõi của tinh thần “Kỷ luật và Đồng tâm” của người Quảng Ninh…
Những đặc điểm trên tạo nên các giá trị tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của tỉnh Quảng Ninh mà những địa phương khác không có hoặc có nhưng không đủ mạnh, để phát triển những ngành, lĩnh vực mũi nhọn, như trung tâm dịch vụ du lịch, giải trí hàng đầu Việt Nam; kinh tế biên mậu và kinh tế biển trong vai trò là trung tâm giao thương quốc tế lớn và hiện đại của vùng kinh tế Bắc Bộ, đồng thời hội nhập kinh tế với khu vực Đông Bắc Á, sẽ là cầu nối hiệu quả giữa Trung Quốc và ASEAN; sản xuất than, vật liệu xây dựng và trung tâm nhiệt điện lớn nhất Việt Nam...
Mặc dù có nhiều ưu thế cạnh tranh, song đến nay, với quy mô và tiềm lực kinh tế hiện tại, cho thấy nhiều tiềm năng phát triển của Quảng Ninh vẫn chưa được giải phóng một cách toàn diện. Đặc biệt, nhiều trở lực do chính yếu tố chủ quan, nhất là một số thể chế, cơ chế, chính sách ở tầm vĩ mô đang kìm hãm sự phát triển. Đây là điều Đảng bộ và nhân dân Quảng Ninh vẫn hết sức trăn trở, để làm sao tận dụng và khai thác tối đa những nguồn lực, tiềm năng, thế mạnh đặc biệt của mình. Dù là một tỉnh phát triển mạnh, có số thu ngân sách lớn, nhưng Quảng Ninh vẫn còn rất thiếu nguồn lực kinh tế để đầu tư cho những hạng mục, công trình trọng điểm tạo sự phát triển bứt phá…
Việc tháo gỡ những nút thắt, điểm nghẽn về thể chế, chính sách, nguồn lực có vai trò quyết định đối với việc hiện thực hóa khát vọng phát triển của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Quảng Ninh. Mặc dù, trong thời kỳ đổi mới, nhất là những năm gần đây, từ kiểm chứng và đòi hỏi của thực tiễn, Quảng Ninh là tỉnh có nhiều đề xuất với Trung ương về các cơ chế, chính sách thông thoáng, rộng đường cho sự phát triển, trong đó có cả những cơ chế mang tính đặc thù và được Trung ương ủng hộ tích cực, tuy nhiên, dự báo trong giai đoạn tới, không ít vướng mắc về thể chế, cơ chế, chính sách vẫn sẽ tiếp tục là những trở lực phát triển đối với Quảng Ninh, nhất là đối với những vấn đề mang tính đặc thù hoặc tỉnh đi tiên phong thực hiện mà chưa có tiền lệ.
Ba là, nhận diện bước chuyển từ phát triển “kinh tế nâu” sang “kinh tế xanh”; mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế, quá trình đô thị hóa nhanh và giải quyết những vấn đề xã hội, môi trường nảy sinh, sự chênh lệch trong phát triển giữa các vùng, miền, thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư.
Do điều kiện tự nhiên quy định, khi vừa là vựa than lớn nhất Đông Nam Á, vừa là mảnh đất của những danh lam, thắng cảnh tự nhiên, văn hóa nổi tiếng, nên Quảng Ninh phát triển song trùng cả những ngành “kinh tế nâu” và “kinh tế xanh” trong cùng một hệ sinh thái kinh tế - xã hội. Đây là đặc thù riêng có của Quảng Ninh, phát sinh nhiều xung đột nội sinh, không dễ giải quyết trong quá trình phát triển. Công nghiệp than là ngành sản xuất gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội - văn hóa Quảng Ninh, không chỉ mang lại nguồn thu chủ yếu cho tỉnh (mặc dù đóng góp của ngành than ngày càng giảm, song vẫn chiếm tỷ lệ lớn: Năm 2016 chiếm 49,8%; năm 2017 chiếm 44,8%; năm 2018 chiếm 44,6%; năm 2019 chiếm 41,2% tổng thu ngân sách nội địa của tỉnh), mà sự ổn định và phát triển, nâng cao được hiệu quả sản xuất - kinh doanh than là điều kiện then chốt để giải quyết được vấn đề việc làm và các vấn đề xã hội khác trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, mặt trái của ngành công nghiệp khai thác than là những hệ lụy về ô nhiễm môi trường, cạn kiệt nguồn tài nguyên, an toàn lao động, nguy cơ sạt lở, ngập lụt nguy hiểm ở chân các bãi thải và khai trường khai thác than… Trong hơn 30 năm đổi mới, trong hoạch định phát triển, có những giai đoạn, tỉnh Quảng Ninh đã từng phát triển “nóng” các ngành công nghiệp nặng, nhất là khai thác than, với công nghệ còn lạc hậu gây ô nhiễm, thất thoát tài nguyên, chưa giải quyết được hài hòa giữa khai thác tài nguyên, phát triển đô thị với bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu. Ngành công nghiệp khai thác than, nhiệt điện, xi-măng... nếu không hiện đại hóa, quản lý tốt, đẩy mạnh công tác hoàn nguyên sẽ xung đột rất lớn với các ngành dịch vụ du lịch, công nghiệp văn hóa vốn dựa vào nền tảng của môi trường tự nhiên trong lành, thắng cảnh tươi đẹp có một không hai của Quảng Ninh, cùng hệ các giá trị văn hóa - lịch sử có bề dày trầm tích của vùng đất hàng nghìn năm văn hiến. Việc bảo tồn và phát huy bền vững các giá trị của Di sản - Kỳ quan thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long, các khu danh thắng, di tích văn hóa - lịch sử, bảo vệ môi trường sinh thái trong lành chính là linh hồn trong phát triển của Quảng Ninh.
Để giải quyết xung đột giữa hai trụ cột phát triển của tỉnh, Quảng Ninh xác định, sự tăng trưởng trọng tâm dựa trên cơ cấu lại kinh tế và chuyển đổi phương thức phát triển theo hướng giảm dần việc dựa vào các yếu tố không bền vững và tăng dần các yếu tố bền vững, nhất là dựa vào vị trí địa chính trị, kinh tế tri thức, khoa học - công nghệ, tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu, cảnh quan, văn hóa, truyền thống lịch sử... để phát triển. Chú trọng phát triển, nâng cao tỷ trọng và chất lượng dịch vụ; phát triển du lịch một cách toàn diện theo quy hoạch, có trọng tâm, trọng điểm gắn với bảo vệ môi trường; bảo tồn và khai thác có hiệu quả di sản thiên nhiên, văn hóa.
Quảng Ninh cũng là tỉnh có tốc độ đô thị hóa rất nhanh. Hiện nay, tỉnh đang xây dựng Chương trình phát triển đô thị đến năm 2030 với mục tiêu hệ thống đô thị sẽ có 5 thành phố trực thuộc tỉnh. Ngoài những lợi thế, mặt trái của quá trình mở cửa, tăng trưởng kinh tế và đô thị hóa nhanh trên cũng tạo nên nhiều vấn đề xã hội từng là “điểm nóng” của tỉnh Quảng Ninh, như tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội phức tạp... Những vấn đề xã hội Quảng Ninh gặp phải là hệ quả của quá trình chưa xem trọng đúng mức việc phát triển kinh tế đi đôi với quản lý xã hội; sự đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức về giải quyết các vấn đề xã hội, về quản lý xã hội còn chuyển biến chậm, có lúc, có nơi bị coi nhẹ; chưa nhận thức đầy đủ vai trò, tầm quan trọng của việc giải quyết các vấn đề xã hội, của mô hình, phương thức phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội trong các chiến lược phát triển. Chưa xác định rõ trách nhiệm giải quyết các vấn đề xã hội của cấp ủy, chính quyền các cấp... Do đó, cùng với sự tổng kết thực tiễn, sự nghiêm túc, thẳng thắn nhìn lại mình, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh nhận thức ngày càng rõ hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng chính sách phát triển; vai trò của chính sách xã hội, sự thống nhất và kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, nên từng bước có những điều chỉnh kịp thời, trình độ quản lý xã hội ngày càng nâng cao, ban hành nhiều nghị quyết và thực hiện có hiệu quả về quản lý xã hội, quản lý đô thị, về văn hóa, y tế, giáo dục, an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo..., hướng tới việc phát triển bao trùm, hài hòa hóa giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Sự phát triển của tỉnh Quảng Ninh trong hơn 30 năm đổi mới cũng không tránh khỏi những mâu thuẫn đặt ra từ sự chênh lệch ngày càng lớn về mức độ, trình độ phát triển, sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư, nhất là giữa những vùng lõi đô thị trung tâm phát triển của tỉnh với các vùng phụ biên, giữa đồng bằng với miền núi, hải đảo. Tốc độ phát triển rất nhanh ở các vùng đô thị hạt nhân trung tâm của tỉnh càng khiến khoảng cách chênh lệch trên ngày một lớn, có thể gây nên những hệ lụy tiêu cực, đòi hỏi cần kíp phải giải quyết. Thời gian tới, việc thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền, tầng lớp dân cư sẽ là một nhiệm vụ trọng tâm tỉnh Quảng Ninh hướng tới thực hiện, đưa sự phát triển ngày càng toàn diện hơn, mọi người dân phải thực sự được hưởng lợi từ những thành quả đổi mới.
Bốn là, dự báo lộ trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trong tương quan với việc phải giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng Quảng Ninh thành khu vực phòng thủ vững chắc về quốc phòng - an ninh, đồng thời là phòng tuyến hợp tác, cạnh tranh kinh tế quốc tế.
Với vị trí địa lý đặc thù và việc xác định thực hiện hội nhập ngay từ sớm, nên quá trình hội nhập quốc tế của Quảng Ninh diễn ra mạnh mẽ. Quá trình hiện thực hóa đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước tại tỉnh Quảng Ninh được thực hiện sáng tạo, đổi mới liên tục từ thấp lên cao, từ hẹp đến rộng, toàn diện và có chiều sâu. Đặc biệt 10 năm trở lại đây, quá trình hội nhập quốc tế của tỉnh có những chuyển biến lớn về chất mang tính đột phá, từ nhận thức, tư duy đến hành động.
Trong quá trình triển khai thực hiện, công tác đối ngoại của tỉnh có nhiều khởi sắc, quan hệ hợp tác quốc tế không ngừng được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất. Tỉnh chính thức thiết lập quan hệ đối ngoại với 13 địa phương nước ngoài, có quan hệ kinh tế thương mại trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ, xúc tiến quan hệ với một số đối tác mới, tiềm năng. Bên cạnh việc đẩy mạnh mở rộng hợp tác quốc tế, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế về kinh tế, tỉnh Quảng Ninh còn thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, môi trường sản xuất, kinh doanh; đổi mới, sáng tạo phương thức xúc tiến đầu tư; tạo điều kiện thuận lợi để các dự án nước ngoài đã được cấp phép triển khai hoạt động. Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng cùng đường lối, chính sách đối ngoại linh hoạt là chất xúc tác mạnh khơi thông nhiều tiềm năng của tỉnh, tạo xung lực tăng trưởng và phát triển của Quảng Ninh.
Tuy nhiên, với vị trí trọng yếu về quốc phòng - an ninh, trong hội nhập và đường lối đối ngoại, Quảng Ninh luôn quán triệt và kiên định thực hiện quan điểm phải giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng Quảng Ninh thành khu vực phòng thủ vững chắc về quốc phòng - an ninh một cách tích cực, chủ động, đồng thời là phòng tuyến hợp tác, cạnh tranh kinh tế quốc tế. Hội nhập ngày càng sâu rộng song phải giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề mang tính chiến lược, là nguyên tắc bất biến, phải được thực hiện thường xuyên ở một địa bàn tiền tiêu của Tổ quốc như Quảng Ninh. Tuy nhiên, thời gian tới, với đặc thù là địa phương vừa có biên giới trên bộ, trên biển, trước diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình Biển Đông và các yếu tố tác động của bên ngoài, nhiệm vụ đối ngoại và bảo đảm quốc phòng - an ninh vẫn còn nhiều thách thức. Mối gắn kết giữa phát triển kinh tế, quốc phòng - an ninh với đối ngoại và ngược lại ở một số địa phương và trong một số dự án chưa thực sự chặt chẽ, hiệu quả.
Nhìn lại hơn 30 năm Quảng Ninh đổi mới cùng đất nước, từ những thành tựu đạt được và những hạn chế, khuyết điểm còn tồn tại, Quảng Ninh cũng rút ra một số bài học kinh nghiệm:
Thứ nhất, bám sát sự chỉ đạo, giúp đỡ của Trung ương, đồng thời luôn chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong vận dụng các quan điểm, đường lối của Đảng vào thực tiễn của tỉnh, trên cơ sở kiên định mục tiêu, lý tưởng, giữ vững nguyên tắc trong quá trình đổi mới.
Trong những năm đổi mới, Quảng Ninh luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt, sự chỉ đạo sát sao của Trung ương, sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, giúp Quảng Ninh tháo gỡ, vượt qua nhiều khó khăn, tìm kiếm, khai thông được những nguồn lực to lớn cho sự phát triển. Tuy nhiên, không vì thế mà tỉnh có tư tưởng trông chờ, ỷ lại. Ngược lại, sự tự lực cánh sinh mạnh mẽ, không cam chịu khó khăn, luôn sáng tạo, tìm tòi cái mới, mạnh dạn đột phá, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm được thể hiện trong tư duy lãnh đạo, hành động thực tiễn và quyết tâm chính trị ngay trước thềm và trong suốt quá trình đổi mới của Quảng Ninh.
Trong hơn 30 năm đổi mới, Quảng Ninh thực sự là vùng đất của những thử nghiệm mới của cả nước, như: Mạnh dạn, sớm thành lập đội tàu viễn dương và vận tải Bắc - Nam ngay trước đổi mới để tăng cường xuất nhập khẩu hàng hóa quốc tế và trong nước, tăng khả năng thu ngoại tệ cho tỉnh; chủ động nghiên cứu lập đề án trình Chính phủ cho phép thành lập “Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái” với một số cơ chế, chính sách ưu đãi đặc thù thông thoáng, cởi mở chưa địa phương nào trong cả nước khi đó có được; cơ chế “dùng quỹ đất để đầu tư hạ tầng”; chủ động bỏ ngân sách địa phương xây dựng quốc lộ; xây dựng cơ chế, đề nghị Chính phủ cho phép tự đầu tư xây dựng đường cao tốc, sân bay, hạ tầng du lịch bằng nguồn vốn tự huy động; thí điểm xây dựng đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn; thành lập Ban Xúc tiến và Hỗ trợ đầu tư tỉnh trở thành cơ quan xúc tiến đầu tư được trao quyền cao nhất với cơ chế trực thuộc trực tiếp Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh; thành lập Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh và 14 huyện, thị xã, thành phố, tạo bước đột phá trong tiến trình hiện đại hoá nền hành chính nhà nước; triển khai Chương trình mỗi xã, phường một sản phẩm (OCOP) theo mô hình quốc tế, có hệ thống tổ chức và mô hình đồng bộ sớm nhất cả nước; đi đầu triển khai Đề án “Đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; thực hiện tinh giản bộ máy, biên chế” với nhiều biện pháp mạnh mẽ, quyết tâm chính trị cao...
Đây đều là những việc làm rất mới, trước đó chưa có tiền lệ trong cả nước.
Như vậy, nếu không tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương, tỉnh Quảng Ninh không thể có được hệ thống thể chế vĩ mô là bệ đỡ cởi trói những khó khăn, vướng mắc, giải phóng những xung lực, tiềm năng phát triển. Tất nhiên, sự quan tâm, ủng hộ đặc biệt của Trung ương với Quảng Ninh không chỉ bởi đây là vùng đất địa đầu xung yếu, giàu tiềm năng..., mà còn bởi những sự thử nghiệm đầy táo bạo, những cách làm mới đầy sáng tạo và mang tính khả thi cao của tỉnh. Những thử nghiệm này sẽ cung cấp trở lại những luận cứ, luận chứng quan trọng để Trung ương có cơ sở khoa học - thực tiễn quyết sách những chủ trương, chính sách lớn cho sự phát triển chung của đất nước. Nhiều vấn đề mà Quảng Ninh đã mạnh dạn kiến nghị Trung ương cho thí điểm áp dụng, sau đó được tổng kết nhân rộng, đưa Quảng Ninh trở thành một “địa chỉ đỏ” khởi nguồn của những chủ trương, chính sách mới, mang tính đột phá của cả nước.
Công cuộc đổi mới tại Quảng Ninh giàu sự sáng tạo, nhưng không chủ quan, duy ý chí, tùy tiện, nóng vội, mà giữ vững các nguyên tắc của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, kiên định với “quyết tâm xây dựng Quảng Ninh thành một tỉnh giàu mạnh”, như lời căn dặn của Bác Hồ khi về thăm tỉnh năm 1965, khi Quảng Ninh vừa được thành lập từ việc được hợp nhất khu Hồng Quảng và tỉnh Hải Ninh.
Thứ hai, phải chú trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan trên cơ sở nhận thức đúng đắn về bối cảnh, tình hình quốc tế, trong nước và những thời cơ, thuận lợi cũng như khó khăn, thách thức của địa phương.
Công cuộc đổi mới tại tỉnh Quảng Ninh là quá trình không ngừng tìm tòi, thử nghiệm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, phấn đấu đầy gian khổ của Đảng bộ, nhân dân trong tỉnh. Trong suốt hành trình đó, tỉnh Quảng Ninh coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; đã xuất phát từ thực tiễn để đổi mới tư duy, nhận thức; tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan - đây là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng bộ tỉnh và sự thành công của công cuộc đổi mới. Việc thường xuyên tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm, nghiên cứu lý luận giúp hạn chế những sai lầm có thể gặp phải, không ngừng bổ sung, hoàn thiện những khuyết thiếu, gia tăng hàm lượng khoa học, cơ sở thực tiễn trong các quyết sách của Tỉnh ủy, cấp ủy các cấp trong Đảng bộ tỉnh. Đây là công việc đòi hỏi dày công, là quá trình đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, khắc phục từng bước những yếu kém và khuyết điểm, tư tưởng giáo điều, bảo thủ hoặc cực đoan, duy ý chí, chủ nghĩa kinh nghiệm để đi đến cái đúng, cái chân lý. Mỗi kỳ đại hội đảng bộ tỉnh đánh dấu một bước tiến trong nhận thức lý luận và hành động thực tiễn.
Tỉnh ủy bám sát cơ sở, phát hiện những mâu thuẫn để giải quyết kịp thời tại cơ sở; tạo sự chủ động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ của địa phương; tăng cường làm việc với các địa phương, đơn vị để nắm tình hình, phát hiện sớm những khó khăn, vướng mắc, kịp thời chỉ đạo tháo gỡ một cách quyết liệt, đồng bộ. Giải quyết và quyết sách công việc luôn đặt Quảng Ninh trong thế phát triển của cả vùng, của cả nước và đặt trong bối cảnh, tiên liệu những biến động tình hình quốc tế; thực sự cầu thị tiếp thu sáng tạo những kinh nghiệm của toàn Đảng, của cả nước, của thế giới, từ đó lựa chọn những bước đột phá tư duy, xây dựng quyết sách và hành động quyết liệt, trên cơ sở bám sát thực tiễn khách quan địa phương.
Đặc biệt, trong tư duy phải có tinh thần cách mạng tiến công, nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật, thẳng thắn chỉ rõ những nguyên nhân thuộc về chủ quan dẫn đến những thành công, cũng như yếu kém, khuyết điểm, từ đó đề ra được chủ trương đổi mới đúng đắn. Cấp ủy các cấp chủ động sáng tạo, quyết liệt, linh hoạt trong chỉ đạo điều hành, bám sát thực tiễn, dự báo sát tình hình và những thách thức mới có thể nảy sinh.
Để thành công, hơn ai hết, Quảng Ninh phải “hiểu rõ mình, biết rõ người”. Bởi vậy, trước hết, tỉnh định vị lại chính mình, nhận diện rõ hơn tiềm năng, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh; phát hiện, nhận thức sâu sắc hơn về những mâu thuẫn, thách thức đặt ra; mạnh dạn chỉ ra những hạn chế, yếu kém. Trên cơ sở sự nhận diện và định vị đó, Quảng Ninh xác định rõ hơn mục tiêu và định hướng phát triển, xây dựng triết lý phát triển, mạnh dạn lựa chọn các giải pháp phát triển mang tính đột phá… Công việc trên, ở mỗi giai đoạn phát triển, đều được Quảng Ninh thực hiện bằng các hình thức, mức độ khác nhau.
Hơn ba mươi năm qua, Đảng bộ tỉnh đã quán triệt và vận dụng sáng tạo quan điểm, chủ trương, đường lối của Trung ương Đảng, tích cực tổng kết thực tiễn và đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế; đề ra được những chủ trương, chính sách phù hợp với sự phát triển của tỉnh; từng bước hình thành lý luận mới có nét riêng của Quảng Ninh, góp phần vào xây dựng hệ thống lý luận của Đảng về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thứ ba, phải luôn chú trọng công tác cán bộ, coi đây là khâu đột phá, góp phần quan trọng vào thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị đề ra.
Cán bộ là gốc của công việc. Con thuyền đổi mới tại Quảng Ninh cập bến thành công do được chèo lái bởi đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt, có năng lực và tâm huyết. Đặc biệt, tư duy luôn đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và sẵn sàng chịu trách nhiệm đã thành một truyền thống qua nhiều thế hệ lãnh đạo của tỉnh. Quảng Ninh có những lựa chọn cán bộ lãnh đạo đột phá, không quá câu nệ hành chính, sự tuần tự, cốt dựa vào hiệu quả công việc, coi trọng những cán bộ trưởng thành từ thực tiễn, dùng người đúng sở trường, “dụng nhân như dụng mộc”. Để có được đội ngũ cán bộ đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, đòi hỏi các cấp ủy đảng phải hết sức dày công từ việc phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cho đến sử dụng, đãi ngộ cán bộ, đều phải tạo được môi trường bình đẳng, công khai, minh bạch, vì việc mà tìm người, vì yêu cầu nhiệm vụ mà sắp xếp tổ chức, bộ máy.
Từ những quan điểm, cách làm mạnh dạn đó, hệ thống chính trị của Quảng Ninh đã không ngừng được củng cố, gia tăng sức mạnh, từ việc tinh giản bộ máy và tinh gọn, tinh lựa cán bộ. Dựa trên khoa học về tổ chức để kiện toàn, sắp xếp lại bộ máy tổ chức của hệ thống chính trị của tỉnh hướng tới ngày càng được tối ưu hóa, vận hành đồng bộ, thông suốt bởi đội ngũ cán bộ tâm huyết, giàu năng lực và kinh nghiệm, trưởng thành và đi lên từ thực tiễn, từ cơ sở, mạnh dạn đổi mới, quyết đoán, quy tụ được lòng người và sức mạnh đoàn kết.
Thứ tư, biết khơi dậy và phát huy sức mạnh nội lực, tạo được cơ chế, chính sách để khai thác tốt tiềm năng, lợi thế, xác định nguồn lực bên trong là quyết định, chiến lược, cơ bản lâu dài; đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế tranh thủ các nguồn ngoại lực, coi nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá.
Nguồn nội lực chính là sức mạnh nội sinh từ mảnh đất, con người Quảng Ninh, là những tiềm năng, thế mạnh về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, tài nguyên khoáng sản, là truyền thống đoàn kết "kỷ luật và đồng tâm", là sự năng động, sáng tạo của các thế hệ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân... Song, để khơi dậy và phát huy được sức mạnh nội sinh đó, đòi hỏi phải có chủ trương đúng, cơ chế, chính sách thông thoáng, tạo điều kiện tối đa để các thành phần kinh tế, mọi cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân có thể phát huy, đóng góp trí lực, sức lực vào công cuộc đổi mới của tỉnh.
Mặc dù nguồn nội lực luôn đóng vai trò quyết định, có ý nghĩa chiến lược, lâu dài, nhưng sẽ là khuyết thiếu nếu không tranh thủ được các nguồn lực từ bên ngoài, nhất là từ nguồn vốn đầu tư, kinh nghiệm tiên tiến của các doanh nghiệp, nhà đầu tư hàng đầu trong nước và thế giới, qua đó giúp Quảng Ninh có những bước phát triển đột phá, đi tắt, đón đầu trong một số khâu, một số lĩnh vực kinh tế - xã hội. Điều này đã được chứng minh rất rõ qua sự nỗ lực, cố gắng của tỉnh Quảng Ninh trong chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, thu hút đầu tư trong và ngoài nước, nỗ lực “xây tổ phượng hoàng” để đón đầu tư, phát huy các nguồn ngoại lực trong hơn 30 năm đổi mới cùng đất nước.
Thứ năm, đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, song phải có trọng tâm, trọng điểm, xác định được đúng khâu đột phá, mũi nhọn; chú trọng phát triển kinh tế đồng thời với giải quyết tốt các vấn đề môi trường, an sinh xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh.
Sự đổi mới toàn diện, đồng bộ sẽ tạo được sức mạnh tổng hợp thúc đẩy sự phát triển. Tuy nhiên, phát triển đồng bộ không đồng nghĩa với tư duy cào bằng, “dàn hàng ngang”, phân bổ dàn trải, trong điều kiện các nguồn lực dành cho phát triển còn hạn chế. Vì vậy, Quảng Ninh lựa chọn những khâu đột phá, mũi nhọn, các ngành và địa bàn trọng điểm để ưu tiên, tập trung đầu tư, tạo động lực phát triển bứt phá, từ đó tạo lực kéo và lan tỏa sự phát triển từ các tâm phát triển ra bề rộng. Quảng Ninh phát triển kinh tế luôn gắn liền với giải quyết tốt các vấn đề về môi trường, an sinh xã hội, trong từng bước đi, từng chính sách phát triển. Mặt khác, với một tỉnh biên giới có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh, Quảng Ninh chú trọng giữa phát triển kinh tế và giữ vững quốc phòng, an ninh trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng - xem đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, sống còn, xây dựng Quảng Ninh thành khu vực phòng thủ vững chắc về quốc phòng, an ninh và phòng tuyến hợp tác cạnh tranh kinh tế quốc tế.
Thứ sáu, không ngừng giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu lực, hiệu qủa quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị, sức mạnh của khối đại đoàn kết các dân tộc tỉnh Quảng Ninh.
Nhìn lại công cuộc hơn 30 năm đổi mới tại Quảng Ninh càng thấy nổi bật lên sự khẳng định đầy thuyết phục: Giữ vững, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn, một bảo đảm cơ bản cho những thắng lợi của công cuộc đổi mới. Thấm nhuần bài học vô cùng quý giá này, Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh trong suốt 30 năm đổi mới đã không ngừng chăm lo củng cố, xây dựng các tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Chú trọng chỉ đạo tất các cả cấp ủy luôn nỗ lực rèn luyện bản lĩnh chính trị, học tập toàn diện kiến thức, tự phê bình nghiêm khắc những mặt non kém, tự chỉnh đốn mình; đồng thời, lường trước, nhận diện và đẩy lùi những nguy cơ làm cho Đảng đánh mất vị trí, vai trò lãnh đạo của mình.
Quảng Ninh cũng không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền các cấp, đi đầu trong cải cách thủ tục hành chính và luôn nỗ lực vươn lên giành vị trí đứng hàng đầu cả nước trong bảng xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Quá trình đổi mới luôn phải quán triệt quan điểm "dân là gốc", "dân là chủ" và "dân làm chủ", mọi chủ trương, đường lối đều phải vì lợi ích của nhân dân; biết khơi dậy, phát huy sức sáng tạo và mọi nguồn lực trong nhân dân, dựa vào sức mạnh của nhân dân để tiến hành công cuộc đổi mới./.
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển